Monday, October 13, 2008

Chặng Đời Giông Bão

Sau biến cố 30-4-75, Việt Nam ta đã phát minh thêm một cái “NHẤT” (Ăn cơm Tầu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật) và ở Tù Việt Cộng được ngụy danh bằng mỹ từ “Học Tập Cải Tạo”.
Thế hệ sau 1975 đã hỏi các Anh HO, các Bác, các Chú học tập những gì mà lâu quá vậy?
Tập hồi ký Chặng Ðời Giông Bão của tác giả Lâm Tiến Ðạt đã trả lời trung thực như xem một cuốn phim xảy ra trong thập niên 75-85 một trong cả ngàn trại tù Cải tạo khốc liệt và ÁC ÐỘC NHẤT.
***


Lời Giới Thiệu
Như một cơn cuồng phong từ đâu ập đến, kéo theo bão tố với sức tàn phá không ai lường trước được; biến cố ngày 30/4 gieo rắc không biết bao nhiêu đau thương cho cá nhân và gia đình các công chức, sĩ quan, dân cử và đảng phái ở miền Nam. Họ bị quy vào đủ thứ tội, từ tay sai đế quốc đến chống phá cách mạng, để rồi bị đưa đi giam giữ vô thời hạn trong các trại tù cải tạo.
Trên 30 năm trôi qua, kể từ ngày đau thương ấy - nay, ở chốn trời yên bể lặng trong cảnh bóng xế ngày tàn, các nạn nhân còn sống sót mới thong thả và từ tốn viết lại những gì đã xảy ra với họ và gia đình sau ngày cơn cuồng phong nói trên ập đến.
Tác giả Lâm Tiến Ðạt, bằng một giọng văn dung dị đã ghi lại tình cảnh bi thảm của một đồng bạn của ông, cũng là sĩ quan cấp tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước nay.
Cuốn "Chặng Ðời Giông Bão", theo thiển ý, có giá trị ở điểm trung thực, không thêm bớt cường điệu, khiến người đọc - từ những người chưa hề nếm mùi tân khổ, đến các thanh thiếu niên thuộc thế hệ sau - khi gấp sách lại sẽ bâng khuâng suy nghĩ. Suy nghĩ về thân phận con người trước các biến động của thời thế, về ân sủng của Ðấng Thiêng Liêng và sau cùng, về sự cảm thông giữa những con ngươiø chung một dòng giống với nhau.
Orange, ngày 22 tháng 7 năm 2006
Huy Trâm

Nỗi Ðau
"Tặng anh Lâm Tiến Ðạt
tác giả tập hồi ký Chặng Ðời Giông Bão"
Sông Cửu

Người viết nỗi đau cấu xé lòng
Trải theo năm tháng dọc núi sông
Thân tù không án chan lệ máu
Kẻ thắng người thua một giống giòng

Nhìn lại cố hương tiết cuối xuân
Rưng rưng sương phủ khắp rẫy nương
Thương dân đau ốm không có thuốc
Xót tù gầy guộc thiếu áo cơm . . .

Nỗi đau tự hỏi - Ai gây tội
Phản bội lương dân, hại nước non
Còn nghe tiếng Quốc đêm trường gọi
Vang dội Hồng Hà đến Cửu Long!?

Người viết nỗi đau của núi sông
Trắng đen lưu lại - chẳng óan hờn
Chỉ mong lịch sử không tái diễn
Núi xương sông máu giống Lạc Hồng .
Sông Cửu.


Chặng Ðời Giông Bão

• NGUỒN GỐC TÁC PHẨM
Năm 1985, tình cờ tôi gặp anh Ð. tại quán cà-phê Bình Hòa, Gia Ðịnh, nhìn nhau cũng ngờ ngợ như đã biết nhau ở đâu? Tôi lên tiếng làm quen hỏi anh trước! Ðúng gặp bạn cũ mà tôi không ngờ ngày nay trông anh tiều tụy đến như vậy! Anh lúc bấy giờ đang tìm kiếm gia đình vì vừa cải tạo mới được tha, họ hàng không còn ai, nhà cũ lối xóm cho biết gia đình vợ con anh đã bán nhà từ hơn hai năm nay, nghe đồn đã đi vượt biên sang nước ngòai?!

Hết mưa tôi chở anh bằng xe đạp của tôi để cùng đi Phú Nhuận. Rủi ro dọc đường chúng tôi bị một xe Honda từ trong ngõ hẻm băng ra, tránh không kịp, bị xe Honda đụng lướt xe tôi, khiến tôi và anh cùng ngã xuống lề đường, xe Honda vọt luôn, tôi bị trầy sơ, còn anh nằm bất tỉnh. Không thấy vết thương nên tôi phải đưa anh vào bệnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Ðịnh.

Tại đây anh vẫn mê man, miệng và mũi ra máu lợn cợn ói như cháo trắng. Sau khi cấp cứu, đến tối hôm đó anh mới tỉnh lại. Câu đầu tiên anh hỏi tôi là cái túi xách tay của anh. Tôi chỉ cho anh ở đầu giường, anh ra hiệu cho tôi lấy bên trong từng cuộn giấy tập học sinh, giấy bao ciment và cả vỏ bao thuốc, giấy nào cũng chi chít chữ viết cả hai mặt giấy. Tôi hỏi anh có mất gì không? Anh lắc đầu và muốn tôi ghé tai sát mặt anh. Tôi phải khó khăn nghe anh nói và hỏi đi hỏi lại những câu tôi nghe chưa rõ. Thì ra anh trối trăn lại những ước muốn của anh khi thấy mình sắp chết. Anh yêu cầu tôi chép lại những chữ trong tập hồi ký nầy cho thứ tự theo ngày tháng rồi chuyển giao dùm cho vợ con anh, hiện thời anh cũng chưa biết ở đâu? phương trời nào? Vì tôn trọng ý muốn của người qúa cố mà trong cái chết của anh tôi đã vô tình gây ra, nên tôi đã hứa trước khi anh tắt hơi thở cuối cùng. Tôi thấy tập hồi ký nầy là di bút của đời anh. Anh đã trang trọng viết bằng nước mắt và con tim anh! chính anh là nhân chứng của lịch sử và cũng là nạn nhân của thời cuộc. Vì “Nguyên Nhân” nầy tôi hy vọng tập hồi ký này sẽ sớm đến tay vợ con anh, cho lương tâm tôi bớt ân hận với anh!

Chép xong mùa Thu năm 1986. tại Châu Phú, An Giang Việt Nam.

Song Mộc




Kính dâng Mẹ hiền !
Tập hồi ký "CHẶNG ÐỜI GIÔNG BÃO"
như một nén hương lòng đốt lên bằng đôi giòng lệ! tưởng nhớ Mẹ! Xin Mẹ tha thứ cho đứa con bất hiếu.

Lâm Tiến Ðạt





• CHẶNG ÐỜI GIÔNG BÃO
“The typhoon of my life”

-“Tôi đã phấn đấu tất cả sức tôi còn! I struggled with what strenght was left me!”
Tôi đã đấu tranh tư tưởng để lựa chọn thể xác và tinh thần, giữa cái chết lấy sự sống, nhẫn nhục chịu đựng để sống nhằm ghi lại những sự việc, những ý nghĩ, tư tưởng của từng thời gian qua trong “Chặng đời giông bão” ngõ hầu để lại một cái gì cho con cháu rút kinh nghiệm, ghi lại những hình ảnh những hành động sự việc nghe thấy, trông thấy, diễn tả một cách trung thực, cả những nhận định theo từng thời điểm, có thể chưa được khách quan, cái đó còn tùy thuộc sự phê phán sau nầy!

Về nhân sinh quan, ra đời tôi mang một hòai bão, tham vọng trở thành người hùng tạo thời thế, trái lại tôi còn bị bánh xe thời thế cuốn hút không thóat ra được, nên tôi vẫn chỉ là hạt cát trong sa mạc lòai người. Lỡ đầu thai là người Việt Nam phải ở đất nước có chiến tranh nhiều nhất thế giới. Các siêu cường quốc thích lựa nước tôi thành võ đài thử sức! quên rằng đất nước VN còn chậm tiến và nghèo nhất thế giới!

Quý vị Việt Nam đang ở quốc ngọai, đang mang giòng máu Lạc Hồng do tổ tiên chúng ta bồi đắp giang sơn Việt Nam bằng xương máu, xin đừng nô lệ vật chất, thể xác mà tước bỏ con người Việt Nam. Xin tưởng nhớ lại lịch sử, đất nước đang cần sự hàn gắn vết thương chiến tranh, đang cần xây dựng lại hiện đại hơn. Nhân dân Việt Nam đang khao khát tự do và dân chủ, qúy vị có bổn phận với Tổ Quốc.

• NHỮNG NGÀY KHÔNG LUẬT PHÁP

Chiến tranh Miền Trung (Quân khu l) từ “Mùa Hè đỏ lửa” đến “di tản chiến thuật” tới “Ðại lộ kinh hòang” biết bao cảnh điêu tàn, thương tâm mà dân vùng “địa đầu giới tuyến” phải chịu đựng. Hàng triệu người từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế, Ðà Nẳng... Ùn ùn lấn tranh nhau từng đọan đường để di tản về Sài Gòn coi như trung tâm định cư an tòan. Người ta đi bằng đủ mọi phương tiện; quân xa, công xa, vận tải, du lịch, Vespa, Honda, xe gắn máy chèn ép nhau, súng nổ như pháo, trước bắn thị uy sau thấy không ai cản ngăn, can thiệp nên bắn thật để giành đường đi trước, đến nỗi xe lớn cán lên xe nhỏ, xe cán lên người, lên đồ đạc thành “đường xương máu”, xác chết sình thối. Hai bên đường không ngớt tiếng rên khóc của những người bị thương nằm la liệt, bắn giết công khai của những kẻ có vũ khí không có lương tri, gây bao cảnh dã man, coi mạng người như thú vật!! Ðó là cảnh trên “Ðại lộ kinh hoàng”

Giữa năm 1974, chiến cuộc tháo chạy lan tràn tới Vùng ll, bắt đầu từ Cao Nguyên Trung Phần trong các tỉnh Phú Bổn, Kontum, Pleiku, Bình Ðịnh, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Rang, Phú Yên, Phan Thiết, Buôn Mê Thuột, Lâm Ðồng, Ðà Lạt và Quảng Ðức. Vùng ll/ Quân khu 2 bị áp lực quân sư tại Phú Bổn, Kontum và Buôn Mê Thuột. Buôn Mê Thuột bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư đòan 23 bị cắt đứt. Sư đòan 23 đang hành quân ở Phú Bổn, Kontum phải rút về để giải cứu Buôn Mê Thuột không nổi phải tăng cường Biệt Ðộng Quân, Tiểu đòan dù và Thiết giáp, cán cân lực lực lượng hai bên mới quân bình. Tuy vậy áp lực tại Buôn Mê Thuột vẫn giằng co, phải lập thêm 1 Chiến doàn tại Phan Rang do Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng không quân Phạm Ngọc Sang chỉ huy để thọc sâu vùng địch, lập thế gọng kìm để yểm trợ giải tỏa áp lực Buôn-Mê-Thuột. Ðơn vị

Dù mới rút ra để thay thế thì Bộ chỉ huy của chiến đoàn Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang đã bị quân lộn sòng bắt sống, có nội tuyến?

Tổng Thống Thiệu và Thiếu tướng Ph. tư lệnh Quân Ðòan ll & QK 2 phải họp khẩn cấp ở Cam Ranh với quyết định thu hẹp vùng ll bằng cách rút bớt những cánh quân tại phía Bắc Kontum, Phú Bổn và Pleiku. Bộ tư lệnh Quân Ðòan ll cũng phải di tản về Nha Trang để dồn lực lượng cho Sư Ðòan 23 về giải cứu Buôn-Mê-Thuột, mấy tỉnh trên giao cho các Tiểu Khu tự giải quyết, trong khi các tỉnh trưởng Kontum và Pleiku vừa nhạâm chức, chân ướt chân ráo, chưa nắm được tình hình nên 2 tỉnh phải di tản chiến thuật mặc dù chưa được lệnh. Vợ con các ông lớn chở đồ đạc di tản bằng công xa, quân xa đi ùn ùn, khiến các thuộc cấp mất tinh thần chiến đấu, mạnh ai nấy đi bằng đủ loại phương tiện chuyên chở!

• SAI LẦM CỦA CẤP LÃNH ÐẠO

Thiếu tướng Ph. V. Ph. được Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm chức Tư Lệnh Quân Ðòai ll & Quân Khu 2 vào mùa Hè năm 1974. Tướng Ph. vừa về là thay đổi hàng lọat Tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng, các trưởng phòng của Bộ Tư Lệnh Quân Ðòan ll và cả Tham Mưu Trưởng Quân Ðòan ll. Thuyên chuyển Tỉnh Trưởng các tỉnh Kontum, Pleiku, Cam Ranh, Ðà-Lạt và Lâm Ðồng cùng một vài tỉnh khác đang gióng tiếng dự trù thay đổi. Chắc chắn không phải để phù hợp tình hình chiến sự. Sự thay đổi cùng một lúc hàng lọat các cấp chỉ huy cao cấp đang nắm giữ tình hình, kinh nghiệm của địa phương trong thời kỳ “dầu sôi lửa bỏng” khiến tinh thần chiến sĩ hoang mang giao động cùng lúc áp lực quân sự địch đang mạnh, lợi dụng được thời cơ gia tăng. Mọâât sự sai lầm của một thầy thuốc chỉ hại một người bệnh, còn sự sai lầm của cấp lãnh đạo nó tai hại biết bao? Phải chăng chỉ vì quyền lợi mà mù quáng trước trách nhiệm to lớn? Hậu qủa là mất hẳn Buôn-Mê-Thuột, bỏ 3 tỉnh Phú Bổn, Kontum và Pleiku để rút chạy công khai không còn mỹ từ di tản chiến thuật gì cả. Ba Tỉnh rút chạy ngã duy nhất là Sông Ba qua Tuy Hòa do Chuẩn Tướng Tất Biệt Ðộng Quân chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh lộ trình. Trên thực tế dọc đường vẫn bị pháo kích, bắn sẻ, bờ Sông Ba chen chúc những xe và người; mạnh ai nấy chạy, chậm yếu cản đường thì bị lớp sau hất ngang xuống sông, xuống đèo. Xe lớn cán lên xe nhỏ, lên xe gắn máy. Ða số là những tàn quân ô hợp, vô kỷ luật đã tàn sát lẫn nhau để tranh giành đường đi trước. Xe cộ, đồ đạc, xác người lớp chết lớp bị thương nằm la liệt như cảnh “Ðại Lộ Kinh Hòang” ở miền Trung lại tái diễn tại đây. Trách nhiệm đau thương nầy về ai?!!



• THAY BĂNG

Tháng 2 năm 1975 tôi được lệnh bàn giao Trưởng Phòng ANQÐ Cam-Ranh cho Ðại úy Nh. Ðàn em của Ðại tá H. vừa nhận chức Chánh Sở 2 ANQÐ. Lệnh thuyên chuyển tôi về Cần Thơ, Sở 4 ANQÐ thuộc quyền Ðại Tá S. Ðang lúc Nha Trang, Cam Ranh được lệnh di tản về Sài Gòn, gia đình tôi đang ở Bảo-Lộc mà đường bộ giao thông về Sàigòn bị đóng chốt ở Rừng Lá Phan Thiết, mất an ninh không thể đi được. Chỉ còn duy nhất về Sàigòn bằng đường biển, phương tiện tự túc đi thuyền ra khỏi hải phận Việt Nam tại Cam Ranh thì có tàu Mỹ đón đi Phú Quốc, còn hàng không quân sự tại Cam Ranh rất khan hiếm và khó khăn chỉ ưu tiên cho cấp lớn…Ðại tá Thưởng chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận tại Cam Ranh cũng hứa cho gia đình tôi cùng đi chung một chuyến bay với ông nhưng phải chờ lần lượt ưu tiên nên chưa biết ngày đi nhất định.

• MỞ ÐẦU CUỘC BỎ CỦA CHẠY LẤY NGƯỜI
Ngày 28/2/1975 tôi mượn được một xe Minibus cùng một xe Jeep Civil có remorque, từ Cam Ranh về Bảo Lộc đón gia đình trở lại Cam Ranh, kể như là điểm xuất có phương tiện về Sài Gòn. Xe chúng tôi tới Bảo Lộc lúc 14 giờ. Tôi hối thúc gia đình thu xếp đồ đạc vào 2 xe trên trước 16 giờ, vì sợ trễ qua đèo Sông Pha rất nguy hiểm và không bảo đảm an ninh, đồ đạc chỉ chở những thứ nhẹ và thật cần thiết còn lại gửi cháu Tình bạn của cháu Hùng, nhà gần đó coi ngó dùm. Máy F10 và 4 remorques và 1 xi-tẹc nước gửi nhà Trung Úy Xuân rể bà Ðòan văn Qúy tại Bảo Lộc. Vườn rẫy gần 6 mẫu mới trồng xong được 1 năm nay như cà-phê, lôm chôm Java, sầu riêng, bơ, mít, ổi, đu đủ, chuối và khoai v.v…đều bỏ lại không người chăm sóc! Lần đi nầy gia đình Ðại úy Kh. (ở Phú Yên không có nhà) ở kế bên thấy gia đình tôi đi vội vã nên cũng hoảng sợ đòi đi theo, tòan bộ là đàn bà và trẻ con gần 10 người, xin đi xe nhờ, khóc lóc, năn nỉ, từ chối không đành mà chở theo thì không còn chỗ…Sau cùng phải bỏ bớt đồ đạc lại, ngồi xếp cá hộp. Chiều hôm đó tới Cam Ranh phải thu xếp cho gia đình Kh. Gia đình nầy không còn tiền gạo gì cả, đành phải chia nhau mà sống! Gia đình tôi ở ngay Cam Ranh để chờ phương tiện hàng không quân sự do BCH5TV xin Bộ Tổng Tham Mưu (Ở Sàigòn) đã thuận hẹn.
Chờ 1 tuần nữa sẽ có phi vụ. Chờ tới 10 ngày mà cũng chưa biết chắc có hay không. Ngày nào cũng chầu chực ở CH5TV, chỗ ở thì Ð/U Nh. Ðã gọi thợ tới sữa nhà như có ý đưổi khéo, trong khi 2 đứa nhõ bị bịnh ban sởi …Khiến tôi phải dời gia đình về Nha Trang ở nhờ anh chị Tiên, đồ đạc thì gởi nhà Uyển (cháu tôi). Hôm sau Uyển kiếm đựơc thuyền máy vừa đủ chở 2 gia đình đi, chú cháu rủ nhau mướn đi Vũng Tàu. Tôi tính nếu đi máy bay quân sự thì phải trở lại Cam Ranh, mà nếu được đi thì mỗi người chỉ 1 xách tay quần áo thôi. Còn đi thuyền với gia đình Uyển có thể chở được một số đồ đạc bù vào tiền mướn thuyền cũng còn hơn đi máy bay quân sự không mất tiền. Ngày hôm đó gia đình Uyển đã xuống thuyền đầy đủ, còn gia đình tôi mới chở được 1 chuyến đồ đạc, bà xã, các con và 2 chú phụ mang xuống thuyền, tôi mắc đi gửi đồ đạc còn lại cho chị Hà con nuôi chị Tiên và là bạn Uyển xong lại chở thêm chuyến chót. Khi tôi tới bến thì không thấy bà xã và đồ đạc, hỏi ra thì bà xã và vợ Uyển hai thím cháu gây gỗ nhau khi xuống thuyền nên bà xã tôi giận dỗi dẫn con và mang đồ đạc ra ngòai đường định đón xe về “Không thèm đi chung nữa” làm tôi sững sờ. Tưởng thu xếp xong chuyến nầy là yên tâm tách bến, ai dè vì tự ái của hai bà kông dằn được mà phải lỡ một chuyến đi. Lúc nầy thuê mướn một chiếc thuyền đâu phải dễ. Giá cả mỗi ngày sau đó tăng gấp 10 gấp 50 lần mà cũng không có thuyền đi. (Sau phải bỏ hết đồ đạc lại). Không biết sau nầy có bà nào nghĩ ân hận vì cử chỉ “nữ tính” của mình để mất của làm khổ chồng con !!!
Lỡ một chuyến đi, tôi đang chạy tìm phương tiện khác thì tình cờ gặp cháu Anh (Con chị Cán ở Bảo Lộc) đi cùng bạn nó, hai đứa đang tính bán xe Honda để lấy tiền chi dụng ra Vũng Tàu. Gặp tôi tụi nó mừng muốn khóc thấy mà tội nghiệp. Nghe cháu Anh kể lại là bỏ gia đình đi tìm cậu (tức tìm tôi) cả gần hai tuần lễ nay, đúng vào lúc hết tiền, không chỗ ở thì gặp cậu như vị cứu tinh. Cháu cũng như con tôi từ chối sao đành nên gia đình lại thêm 2 người trong cuộc di tản mờ mịt nầy. Tôi chạy tìm hỏi hết mọi chỗ ở Nha Trang mà cũng không còn thuyền nào đi Vũng Tàu hay Sàigòn, trong khi thiên hạ đi đường bộ ùn ùn. Tôi phải trở lại Cam Ranh xin Ðại tá Thưởng phương tiện hàng không quân sự. Ông cũng sốt sắng gọi điện thọai xin Bộ Tổng Tham Mưu được 1 chuyến C.129 để chở gia đình Ðại Tá Thưởng và gia đình tôi. 24 giờ sau phi cơ sẽ đáp xuống phi trường Cam Ranh đón đi. Tôi mừng qúa rủ Vũ (Ðại úy) về Nha Trang đón gia đình đi, tính như thường lệ đi về với đoạn đường hơn 50 cây số thì chỉ 2 giờ đồng hồ; có chậm lắm cũng 3 giờ là cùng, nghĩa là còn dư 21 tiếng đồng hồ nữa máy bay mới đáp Cam Ranh. Nhưng ai học được chữ “ngờ”! Một đọan đường bình thường đi chỉ 1 tiếng mà nay phải mất 2 ngày (48 tiếng). Vì đường đông nghẹt xe cộ đủ loại, chen lấn giành nhau nhích từng chút một. Tôi lái xe dân sự lại mặc thường phục nên bị xe quân sự lấn ép... Súng chĩa bắn chỉ thiên như đốt pháo dọc đường cùng với tiếng chửi rủa tục tằn! Không còn luật pháp, quân kỷ gì hết. Hai bên đường cũng đã có người chết, người bị thương, cùng đồ đạc tung tóe ngổn ngang… cũng không khác cảnh “Ðại lộ kinh hòang” Miền Trung và bên bờ Sông Ba ở Phú Yên!
Chuyến bay đón gia đình tôi và gia đình Ðại tá Thưởng đã đi trước một ngày.. Dọc đường đi tôi gặp một nhân viên của Ðại tá Thưởng cho biết Ðại tá Thưởng chờ tôi không được nên đã cho gia đình người khác vào giờ chót máy bay cất cánh! Xe tôi nhích tới gần Ðồng Bà Thìn trước cửa nhà Tùng (nhân viên cũ) thì Tùng chạy ra đón vào nhà nghỉ đêm đó. Dịp nầy Tùng cũng xin đi theo xe, từ chối không nỡ, xe thì chật ních lại phải chở thêm 2 người lớn và 2 trẻ con nữa, tôi phải gửi lại nhà Tùng 2 xe Honda và bao gạo để có chỗ cho gia đình Tùng cùng đi. Hôm sau đi dọc bờ biển Cam Ranh tới cổng Mỹ Ca, qua cây số 9 tới Ba Ngòi cũng không có thuyền chở mướn ra chỗ tàu Mỹ cách Ba Ngòi chừng 2 hải lý. Nghe đồn tàu Mỹ sẽ cặp bến Ba Ngòi để đón đồng bào di tản. Tin nầy tung ra thế là biết bao xe cộ đến Ba Ngòi, trong đó có cả xe tôi, tới cầu tàu bến Ba Ngòi đúng lúc mưa tầm tã, báo hại 15 người làm sao trú mưa trong xe được? Phải chui vào gầm xe đục mưa, chờ tại bến Ðá Ba Ngòi mất một ngày một đêm trong mưa lạnh mà không thấy tàu thuyền nào cả! Nhờ cháu Anh và bạn nó lấy xe đi dọc bờ biển xem có thuyền nào chở mướn thì theo lại đây, giá bao nhiêu cũng được. Ðợi hết ngày hôm đó cũng không thấy hai đứa về. Sau biết được chúng gặp được thuyền sắp đi nên theo luôn ra tàu Mỹ bỏ mặc cậu nó và gia đình chờ đợi! Sau xe phải trở lại xóm Chài gần cây số 9 ngủ nhờ nhà dân, sáng lại đi gấp bỏ quên một thùng đựng 2 máy cassette Croun cả loa ngòai luôn. Xe đi ruồng trong xóm để tìm hỏi chỗ nào có thuyền cho mướn, tìm không có phải quay ra đến gần đường cái thì gặp hai tên quân phạm mặc đồ rằn ri có súng M16 cằm lăm lăm trên tay. Chúng thấy Tùng cũng cầm M16 với áo giáp nón sắt coi dữ dằn nên khi thấy Tùng thì chúng chỉa súng vào lưng Tùng bắt Tùng nộp súng cho chúng. Lúc đó tôi thấy căng và vì nhiều sinh mạng trên xe nên phải lái xe đi quặt vào hẻm khuất mũi súng đang chỉa về phía xe. Sau Tùng chạy theo trách tôi sao không xuống can thiệp giúp nó để bị uy hiếp mất súng, tôi an ủi nó nhưng nó vẫn còn hậm hực, cằn nhằn hòai trên xe…Tôi hỏi nó:” Nếu chú là tôi thì chú can thiệp như thế nào? Lúc nầy là lúc “lọan quân hỗn quan” không còn luật pháp, tôi lại mặc thường phục dù trong mình tôi có súng lục (nhỏ 6 ly 35) mà chúng nó 2 đứa thuộc quân phạm đều có súng M16 đang chỉa vào xe đông người, thế bất lợi cho phe ta nhiều hơn, còn nói lý lẽ với chúng lúc nầy như nước đổ lá môn; chưa biết chừng chúng dám hạ sát chúng ta để cướp của, cướp xe. Chuyện nầy ta đã thấy xảy ra ở dọc đường trong mấy ngày qua. Sau đó Tùng nó vẫn còn giận tôi nên xin đi riêng! Em út nó còn trẻ bồng bột, lại trong lúc nóng giận khó mà giải thích, phân tích lợi, hại cho nó hiểu mình. Vì hòan cảnh bất đắc dĩ mà phải tòng quyền, tùy cơ ứng biến mới là “kẻ trí”, để thời gian nó sẽ hiểu! Sáng hôm sau tôi lại lái xe đi kiếm thuyền, tới bến Cá gần nhà thờ cây số 9 gặp mấy thuyền chở mướn đã đầy khách, không còn chỗ. Hỏi thăm một ngư dân ở vùng đó thì chú nầy có thể kiếm được một thuyền ngay cho gia đình tôi, nhưng thuyền nầy chỉ chở người không, không chở đồ đạc với giá 50.000 một người. (Tiền bấy giờ). Trẻ con cũng đồng giá. Riêng chú nầy đòi trả công chú bằng đồ đạc của tôi bỏ lại gồm 1 TV 9 ins, 1 cassette lớn, 2 va ly quần áo đắt tiền, 2 sắc marine quần áo, chăn màn thường. Mỗi người lớn chỉ còn 1 xách tay nhỏ. Tiền phải trả trước khi xuống thuyền. Tất cả tổng 450.000 đồng cho gia đìng 9 người. (2 người lớn và 7 trẻ con). Nói mãi họ mới bớt được 50.000 đồng vì bé Trúc ẵm trong lòng không choáng chỗ ngồi, còn xe với remorque đầy đồ đạc phải bỏ lại tại bãi biển Cam Ranh theo đúng khẩu hiệu “Bỏ của chạy lấy người”. Sau nầy tiếc nhất trong valy bỏ lại cặp hồ sơ giấy tờ, văn bằng, văn tự đất, hóa đơn xe, máy móc và mấy cuốn album chụp biết bao kỷ niệm của gia đình. Tiền của mất thì còn có thể kiếm lại, hình ảnh kỷ niệm dĩ vãng thì làm sao có được!!!
• TUẦN LỄ TRÊN TÀU CHUNG VỚI BỌN CƯỚP
Ðược coi như sống chung với ma qủi ở “Ðịa ngục trần gian”. Gia đình chúng tôi 9 người tới tàu ENTERPRISE đậu neo cách bờ biển Cam Ranh khỏang hai hải lý, từ xa đã thấy trên tàu đông nghẹt người đứng chóang cả lối đi. Trên đầu cầu có quân cảnh Mỹ lục xét đồ đạc và hỏi ai còn giữ vũ khí và chất nổ thì nạp. Ðó là thủ tục lên tàu. Trên tàu đầy đặc người, đủ mọi giai cấp xã hội, đứng chật cả lối đi, dưới hầm tàuchỗ nào cũng chật cứng người sắp lớp như cá hộp. Sau mấy giờ tôi cũng lấn được một chỗ bằng nửa chiếc chiếu cho cả gia đình. Chỉ có má Bé Trúc nằm được vì quá mệt, còn thì ngồi hoặc đứng mới đủ chỗ. Tôi đứng mãi cũng mỏi chân nên hai cha con (Hùng) bàn nhau đi kiếm chỗ ngủ, đi len lỏi cả giờ đồng hồ mới đến được chỗ trống thưa người nhất hai cha con “tưởng bở” chắc nhẩm có chỗ nằm. Ai dè đó là chỗ cầu tiêu lộ thiên, tới gần hôi thúi mùi khai bốc lên nồng nặc, phân giấy trây trét tùm lum, thấy vậy hai cha con tính quay lại, nhưng quay lại cũng không được vì người tràn đứng hết lối đi…Hai cha con đành ngồi kế bên cầu tiêu, ngồi trên lan can tàu, hai bàn chân móc vào song sắt ngang phía dưới cho khỏi té, ngồi xoay trở suốt đêm mà không dám ngủ, sợ ngủ quên buông chân móc thì té ngửa người xuống biển. Cha con ngồi ngửi hơi thối chịu trận cho đến hừng sáng. Thật là một đêm dài cực hình chưa từng thấy. Sáng hôm sau rõ đường đi lại hai cha con mới chen chân vào giữa kẻ hở của những người nằm choáng hết lối đi để trở lại chỗ gia đình, dọc đường tiếng cằn nhằn của những người nằm bị cha con tôi đụng. Dịp nầy gặp biết bao nhiêu người quen; gặp cháu Anh và bạn nó cũng ở trên tàu nầy. Từ mấy ngày trước hai đứa bỏ cậu bỏ gia đình đi trước nay gặp tôi coi bộ sượng sùng, mắc cỡ. Tôi phải hỏi tảng lờ như chuyện của chúng đi riêng là thường, thấy tôi không đá động đến lỗi của chúng lại còn hỏi chỗ ăn, chỗ ngủ, chúng than đói từ hôm qua đến nay! Gia đình lại thêm hai khẩu phần ăn nửa trên tàu. Bây giờ tôi mới có dịp quan sát kỹ trên tàu, trên boong dưới buồng tàu, từng ống khói tàu, chỗ để phao và xuồng cấp cứu cũng đông nghẹt người, lớp võng trên, lớp người nằm dướichen chúc nhau như cá hộp, đủ mọi hạng người, cả những quân phạm ở quân lao Nha Trang đã phá khám (nhà tù) cướp súng của trại giam đi cướp phá trong Thị Xã Nha Trang và dọc đường đi Cam Ranh từ mấy ngày trước. Dân chúng óan than, không ai dám gần chúng…Mà nay chúng cũng có mặt trên tàu nầy. Chỗ nào cũng nghe tiếng than về nạn cướp giựt đồ, nữ trang, tiền, đồng hồ và thực phẩm. Ðã có người phát giác truy hô cầu cứu thì lập tức chúng đập đầu bằng bù loong sắt rồi liệng xác xuống biển. Tất cả những tai ách trên tàu đều do những quân phạm nầy gây nên. Sau ai cũng sợ chúng như hung thần, thấy chúng ở đâu là lánh xa, quan sát kỹ dễ biết, chỗ nào chúng ở thì rộng rãi, lớp võng nằm, lớp chiếu trải ngồi ăn nhậu, có cả gái ngồi ôm bên cạnh coi thật chướng mắt. Nếu có ai dại dột tố cáo lớn tiếng để nhiều người biết thì bù loong lên đầu rồi xuống biển mò tôm, nên ai cũng sợ!! May chỗ gia đình tôi ở sát chân đài quan sát của tàu, lúc nào cũng có lính Mỹ gác nên được an tòan nhất trên tàu. Sinh họat trên tàu phần lớn cho nhu cầu ăn, uống và chỗ nằm. Tiếng ồn ào gây gỗ cải nhau về chỗ nằm, giành nhau lấy nước uống (nước lã) giống như cái chợ!
• MỘT CUỘC THI TUYỂN THÔNG DỊCH VIÊN
Hôm sau Ban Chỉ Huy tàu gọi loa phóng thanh cho biết, tàu đang cần 2 thông dịch viên tiếng Anh giúp việc trên tàu. Tôi đang lo không biết lấy gì cho 11 người ăn (kể cả cháu Anh và bạn nó) gạo sấy, mì gói mang theo đã gần hết. Trên tàu chỉ phát cho mỗi khẩu phần ăn 1 gói mì ăn liền cho 1 ngày. Có khi không có vì nạn giành giựt chen lấn. Trong khi giá bán ở trên tàu đã lên tới 1.500 một gói mì. (Giá ở đất liền chỉ có $35 một gói) Thủy trình chưa ai biết hôm nào mới tới Phú Quốc. Ðến hôm nay thì có tiền cũng không mua được thực phẩm, ai cũng dự trữ để dành vì tàu đang neo ngòai khơi để đợi tàu Mỹ tiếp tế và tàu Hải Quân Việt Nam đem thực phẩm đến cho đồng bào. Tàu đậu đợi đã 3 ngày, trên tàu đã khan hiếm thực phẩm nên đã có người lả vì đói, trong khi bọn cướp (Quân phạm) đầu cơ bán, đổi với giá cắt cổ. Có người phải lột đồng hồ đeo tay để đổi lấy 1 gói mì! Ðói quá, đã có khu cướp giựt thực phẩm của nhau, gây ẩu đả kêu khóc om sòm, khiến tóan quân cảnh Mỹ can thiệp suốt ngày mà cũng không vãn hồi được an ninh trật tự…
Cuộc thi thông ngôn và thông dịch viên đã xếp thành hàng một đứng dài khỏang 100 người. Ða số vì nhu cầu cấp thiết lương thực, nhất là gia đình tôi, nên tôi cũng dự thi, tôi xếp hàng khỏang giữa, trong số nầy, có nhiều người trước đã làm thông dịch viên cho Mỹ. Mặc dù có bằng cấp cũng phải qua cuộc thi sát hạch bằng hai “cửa ải”. Ải thứ nhất: Phải qua một sĩ quan Mỹ hỏi (tiếng Mỹ) khỏang 10 câu thông thường, có tính cách tìm hiểu trình độ, học lực và lý lịch của từng người. Cửa ải nầy tương đối dễ nên 10 người thi thì đã có 8 người trúng tuyển. Còn cửa ải thứ hai thì do 1 bác sĩ Mỹ hỏi, sát hạch tòan về y lý.
Hỏi các bệnh thông thường, triệu chứng bệnh, cách phòng ngừa và chửa trị của những thuốc uống thông thường. Thế mà đa số thí sinh bị rớt ở cửa ải nầy. Có người rớt, trước đó đã từng làm thông dịch viên nhiều năm tại Bộ Chỉ Huy quân sự Mỹ, vì không hiễu từ của ngành Y lý. Gần tới lượt tôi mà trước tôi không thấy ai trúng tuyển. Có người giỏi hơn tôi mà cũng bị rớt làm tôi cũng nản chí. Không lẽ chờ từ sáng giờ mà bỏ về? Quan sát cuộc thi thì thấy ai cũng bị động khi vào thi vấn đáp. Tôi tự nghĩ mình phải tạo thế chủ động khác những người trứơc, nên bước vào là tôi tự giới thiệu lý lịch và những công việc làm hợp tác với bà bác sĩ Smit ở Kontum với Hội Việt Phi trong chương trình cứu trợ Y Tế cho đồng bào Thượng ở Cao Nguyên Trung Phần trong những năm trước. Khỏang 10 phút chủ động giới thiệu thì bác sĩ Mỹ chỉ hỏi tôi 1 câu: “Nếu người bệnh bị tiêu chảy và ói mửa (Thượng thổ –hạ tả) đó là triệu chứng bệnh gì? Và thủ tục cấp cứu phải làm sao?” Tôi đáp: “Ðó là triệu chứng bệnh dịch tả, nếu trúng bịnh nầy dễ gây lây lan truyền nhiễm rất nguy hiểm. Biện pháp là phải lập tức cách ly bệnh nhân và lập hàng rào vệ sinh y tế phòng ngừa ở nơi bệnh xuất phát để chặn đứng dịch tả truyền nhiễm “All right”. Bác sĩ bắt tay tôi và tuyên bố “Trúng tuyển”. Ông nói: Kể từ nay anh ở đây làm việc, ăn ngủ tại phòng khám bệnh với tôi (Bác sĩ Mỹ). Chương trình làm việc, sáng từ 6 giớ đi các nơi trên tàu khám bệnh và cấp thuốc cho những bệnh nhân nhẹ, bệnh thông thường. Còn bệnh nặng thì phát thẻ cho bệnh nhân đến trạm xá để điều trị, nơi đây làm việc 24/24. Bệnh kiết lỵ, tiêu chảy, cảm cúm, đau mắt cấp tính chiếm đa số. Bệnh nhân đến chật ních cả phòng khám bệnh; xếp hàng từ trong ra ngòai, đặc biệt có bệnh đói lả ngất xỉu rất nhiều!
Một mình tôi chạy chỗ nọ đến chỗ kia; khi thông ngôn cho bác sĩ Mỹ, khi thì thông dịch cho y tá Mỹ làm việc mỗi ngày suốt đến 12 giờ đêm mới nghỉ. Bác sĩ Mỹ và y tá ai cũng làm việc tích cực, vừa làm vừa ăn đồ hộp, mệt thì ngồi nghỉ một chút, buồn ngủ thì rửa mặt. Thấy sự tận tâm của người ngọai quốc đối với đồng bào mình khiến tôi cũng phải cố gắng, mặc dù sức tôi cũng quá đuối, rất mệt. Bệnh nhân đa số con nít, người già và phụ nữ. Tuy làm việc bận rộn, tôi cũng phải tranh thủ mỗi ngày nửa giờ ra ngòai khu Mỹ để thăm gia đình và tiếp tế mì gói, đồ hộp ration C. Nhờ được sự tín nhiệm nên sự ra vào Ban Chỉ Huy Tàu có lính gác và quân cảnh Mỹ cũng quen mặt biết tôi là cấp tá Quân Lực VNCH (mặc dù tôi mặc thường phục) họ vẫn chào hỏi tôi rất lễ độ. Mỗi câu đều Sir! Sir! Mỗi lần mang đồ tiếp tế cho gia đình thì biết bao người bu quanh xin, lần nào cũng mất 1 phần để cho. Những hôm kế tiếp rất nhiều bệnh nhân đến xin trị “bệnh đói”, tôi phát mì gói, đồ hộp Ration C qúa nhiều, đến nỗi kho chứa đầy mà mới mấy ngày đã trống rỗng. Bác sĩ Mỹ đề nghị từ nay chỉ cho người đói lả ăn tại chỗ để tránh lợi dụng và tiết kiệm đợi cho đến khi có tàu tiếp tế. Tàu neo ngòai khơi đã được 4 ngày mà chưa thấy tàu nào tới tiếp tế mặc dù ban chỉ huy tàu đã gửi điện tín từ hai hôm nay!
• BIỆN PHÁP AN NINH TRÊN TÀU
Một cuộc họp bất thường của BCH Tàu có 2 người Việt Nam tham dự là tôi và anh Thái thông dịch viên của Ban chỉ huy Tàu từ lâu. Cuộc họp thông báo trên tàu chỉ còn lương thực 2 ngày nữa là hết, nên quyết định kho mì và đồ hộp Ration C. của phòng thuốc tạm ngưng phát, chỉ chữa trị bệnh nhân nào cấp thiết mà thôi. Cuộc họp cũng nêu tình trạng mất an ninh. Phải tiểu trừ ngay bọn cướp của giết người để đồng bào được yên ổn. Họ yêu cầu tôi đưa ra biện pháp và giao tôi tòan quyền xử dụng 1 tiểu đội lính Mỹ và ½ tiểu đội quân cảnh Mỹ để tùy nghi biện pháp mà tiêu diệt bọn cướp trên tàu. Có thể bắn tại chỗ kẻ phạm pháp, chính phủ Mỹ sẽ chịu trách nhiệm! Họ làm tôi khó từ chối vì họ ủy quyền coi tôi như cấp đại diện cho chính quyền Việt Nam trên tàu. Nếu tôi làm thẳng tay thì không tránh khỏi máu đổ và điều đáng ngại là gia đình tôi dễ bị trả thù vì toán quân phạm còn cất giấu súng lục, lựu đạn…Chỉ 1 trái lựu đạn vào gia đình tôi, trên tàu biết ai là thủ phạm với sự trả thù của kẻ cướp bất lương thì đâu có từ một thủ đọan nào mà không làm được? Nên tôi đưa đề nghị mở 1 cuộc hành quân thanh lọc để kiểm sóat từng khoang tàu, từng khu vực. Mỗi khu vực là 100 người tự bầu 1 tóan trưởng, 1 tóan phó và một số nhân viên chỉ định của tóan nầy. Cứ 5 tóan thì có 1 khu trưởng và một số nhân viên, cấp nầy có thể trang bị vũ khí phối hợp với binh sĩ Mỹ và quân cảnh Mỹ để tuần tiểu kiểm sóat từng khu vực một, ngõ hầu tập trung những phần tử khả nghi vào 1 khu riêng với biện pháp “Lấy độc trị độc”; Nhgĩa là thu dụng đàn anh bọn cướp để chế ngự đàn em. Mỗi khu sẽ cử 1 đại diện lập thành 1 ủy ban xét xử kẻ phạm pháp. Ðề nghị của tôi đưa ra được BCH cuộc họp đồng ý liền. Sau mấy ngày mọi việc trên tiến hành đều tốt đẹp. Tình trạng an ninh trên tàu đã được ổn định. Kế đó tàu Mỹ tiếp tế thực phẩm đến, BCH Tàu giao cho tôi phân phát cho đồng bào, thực phẩm tôi giao lại cho trưởng khu phân phát cho đồng bào phải ký lãnh vào sổ sách để tránh sự thất thóat.
• BĂNG CƯỚP TRÊN TÀU
Tuy biện pháp an ninh trên tàu tạm ổn và băng trộm cướp đa số là quân phạm đã được dồn vào 1 khu do Ðại úy Phú và Năm Vĩnh quản chế, nhưng chỉ là tạm thời, chúng chờ thời cơ “làm ăn lớn” !
Băng cướp trên tàu khỏang 40 tên tòan là quân phạm Nha Trang do tên Năm Vĩnh chỉ huy. Tôi biết Năm Vĩnh từ năm 1970, hồi tôi làm việc ở Nha Trang. Lúc đó Năm Vĩnh chứa sòng bạc và số đề ở Cam Ranh thành một khu vực riêng ở cây số 9, từ năm 1971 đến 1973. Năm Vĩnh bắn chết 1 quân cảnh VN tại quán cây số 9 Cam Ranh và bị đánh lọt tròng 1 con mắt, kế đó hắn bị bắt giam tại quân lao Nha Trang từ năm 1973 đến nay. Lợi dụng lúc di tản không còn ai canh giữ khám nên Năm Vĩnh chỉ huy phá khám, cướp vũ khí kéo nhau đi “ăn hàng” tại thị xã Nha Trang mấy ngày liền từ Nha Trang tới Cam Ranh rồi trà trộn với dân lên tàu nầy trọn băng quân phạm.
Trên tàu có đại úy P. cựu trưởng chi ANQÐ Ninh Hòa cũng bị giam tại quân lao Nha Trang về tội say sưa bắn què một thông dịch viên Mỹ. Không biết ở quân lao Nha Trang P. đã có thành tích gì mà Năm Vĩnh tôn P. là đàn anh. Tôi biết P. có uy với băng Năm Vĩnh mà P. là đàn em của tôi trong ngành ANQÐ. P. đã từng làm việc cùng tôi hồi ở Nha ANQÐ. Anh của P. là Ch. làm tùy viên cho thiếu tướng Ðỗ Mậu. Sau tôi làm phụ tá trưởng ty Khánh Hòa, Ch. có gửi gấm P. cho tôi, vì biết thằng em bất trị nầy khi nhậu thì bất kể ai! Nay trong băng cướp có P. đở đầu (gián tiếp), có thể P. bị liên can mang tiếng ngành ANQÐ nên tôi gặp riêng P. nhờ khuyên Năm Vĩnh cũng đàn em đừng làm bậy trên tàu nữa, kẻo BCH tàu sẽ có biện pháp cứng rắn có liên lụy tới chú, mà vì chú, tôi cảnh cáo trước! P. hứa sẽ ngăn bọn Năm Vĩnh hy vọng sẽ không còn nạn cướp phá trên tàu nữa. Quả nhiên băng cướp sau đó ngưng họat động. Chuyến tàu nầy mất trên 10 ngày mới tới Phú Quốc. Qua thủ tục kiểm tra, tất cả mọi người phải qua Sà-lan của Hải quân VN đưa vào bờ và lần lượt qua “Hàng rào thanh lọc” gồm có cảnh sát, quân cảnh HQ và ANQÐ do đại tá Sảo Chánh sở 4 ANQÐ chỉ huy cuộc thanh lọc để tìm bắt kẻ cướp, giết người trên tàu. Khi Sà-lan cặp bờ, tôi đang bồng bé Trúc, thấy mấy sĩ quan trên bờ vẫy tay gọi, tôi mừng quá định chạy lại hỏi chuỵên, tôi mới bước được mấy bước thì 1 anh quân cảnh Hải quân VN giơ cây gậy gạt lại, quát nạt tôi: “Tại sao tự tiện đi?” không chờ lệnh hắn. May lúc đó có 1 đại úy trưởng chi ANQÐ Phú Quốc đến hỏi tôi “Xin lỗi có phải T. Tá Ð. Trưởng ty ANQÐ không?” Tôi gật đầu, thì vị nầy giơ tay chào và cho biết được lệnh Ðại tá Chánh Sở đón tôi. Kế đó mời tôi đi theo gặp đại tá Sảo. Tôi quay lại hỏi anh quân cảnh lúc nãy, “Bây giờ anh cho phép tôi đi chứ?” Lúc nầy hắn đứng nghiêm chào và xin lỗi vì tưởng chú người Hoa nào!
Gặp anh Sảo có yêu cầu tôi ở lại chỉ huy tóan thanh lọc để bắt bọn cướp giết người trên tàu, do lệnh của Tư Lệnh QÐ lV chỉ thị. Tôi phải kiếm cớ từ chối vì sức khỏe đang bị cảm. Tuy nhiên tôi cũng báo cáo sơ lược những hành động của bọn cướp do Năm Vĩnh chỉ huy có thể liên can đến đại úy P. … Sáng hôm sau tôi được ưu tiên đưa gia đình lên tàu về Rạch Giá. Khi tới nơi thì được tin: Tóan thanh lọc đã xử bắn 2 tên chúa đảng cướp là Năm Vĩnh và 1 tên nữa. Còn Ðại úy P. được đưa về Sở 4 ANQÐ để điều tra. Tóan thanh lọc nầy đã lục sóat bọn cướp được 2 sac marins đồ nữ trang, đồng hồ giây chuyền, cà rá và tiền mặt. Tổng cộng ước lượng khỏang 1 tỷ bạc Việt Nam lúc bấy giờ.
Hơn 10 ngày lênh đênh trên mặt biển, cả gia đình chưa được ăn no 1 bữa, đang định rời tàu lên bờ ăn 1 bữa bồi dưỡng để bù lại…Nhưng khi tàu cặp bến Kiên Giang thì đã thấy trên bờ đã có mấy đứa con anh chị Sảo mang 2 xe hơi chờ để đón về Cần Thơ, việc đầu tiên là kiếm một tiệm ăn để “trả thù” bụng đói cả tuần nay. Cả gia đình ăn một bữa ngon chưa từng thấy!
• CHUỖI NGÀY NHƯ KIẾN BÒ QUANH CHẢO NÓNG
Tháng 3 năm 1975, gia đình tôi ở nhà anh chị Sảo ở Cần Thơ. Tôi làm việc tại văn phòng Ty ANQÐ Phong Dinh tạm phụ trách trưởng phòng ANQÐ Thị Xã Cần Thơ. Trong thời gian chờ quyết định bổ nhiệm mới. Tính hình sinh họat: Bề ngòai của Thành Phố Tây Ðô như cảnh thái bình vô sự, hàng quán ăn tấp nập nguời, các quán cà phê, phòng trà và các rạp chiếu bóng vẫn đông người. Chợ Cần Thơ vẫn nhộn nhịp buôn bán không thấy gì chiến tranh lọan lạc, di tản.
Riêng các giới chức chỉ huy các binh đòan quân sự và hành chánh, các chỉ huy trưởng, các đơn vị, kể cả Tỉnh Trưởng Phong Dinh đều không thấy mặt trong các buổi sáng họp dự thuyết trình trong trung tâm hành quân Bộ Tư Lệnh Quân Ðòan 4 theo như thông lệ. Cả Chuẩn Tướng T. Dzềnh Q., Tham Mưu Trưởng Quân Ðòan cũng vắng mặt. Trong phòng họp tôi thấy T. Tướng Nam Tư Lệnh Quân Ðòan và Chuẩn Tướng Hưng Tư Lệnh Phó và đa số cấp phó đại diện các chỉ huy trưởng tham dự buổi thuyết trình, tuần trước. Tôi thấy gần đủ mặt cấp trưởng, sau rồi mỗi ngày mỗi thưa dần cho đến hôm nay Thiếu Tướng Nam thấy trong phòng họp vắng mặt các cấp trưởng nên hỏi thì các cấp phó và cấp đại diện. Ðơn vị nào trả lời vắng mặt cũng có lý do cả. Khiến Thiếu Tướng Nam tỏ vẻ bất bình ra lệnh cho Ðại Tá Sảo Chánh Sở 4 ANQÐ xem lại vấn đề vắng mặt nầy, xác nhận hư thực rồi trình ngay Tư Lệnh!
• LỆNH ÐẦU HÀNG
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong phòng họp tại Trung Tâm Hành Quân, Quân đòan 4, sau phần thuyết trình của Phòng 2 và Phòng 3/QÐ về tình hình địch, bạn tại phần lãnh thổ Quân Khu 4. T.Tướng Nam thấy buổi họp vắng mặt qúa nhiều các Ðơn vị Trưởng và cả các cấp Phó nên ông tỏ vẻ bực tức, gay gắt nên trong phòng họp nặng nề, im lặng. Khoảng 9 giờ, T. Nam ra lệnh Phòng 3 đưa mấy chiếc radio vào phòng họp để nghe Nhật Lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh. Sau khi Nhật Lệnh cho quân đội trên tòan lãnh thổ Việt Nam ngưng bắn để chờ “Ủy Ban Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc về Hòa Bình”... Tất cả phòng hợp nghe xong đều bi quan! Cả Tướng Nam và Chuẩn Tướng Hưng cũng lộ vẽ chán nản bỏ phòng họp ra về!
• BÂY GIỜ NƯỚC ÐẾN TRÔN MỚI NHẢY.
Tôi cùng anh Sảo từ phòng họp ra về cũng hết sức bi quan, trên xe không ai nói một tiếng. Về tới nhà đã được chị Sảo đón thông báo: Có một thuyền máy khỏang 1000 tấn của Thiếu Tá Ph. bạn của chị Sảo hiện đang đợi ở bến. Tất cả gia đình tôi 11 người (Kể cả cháu Anh và bạn nó) cùng với gia đình anh chị Sảo với 3 chú tài xế, mấy người giúp việc nhà, tổng cộng khỏang 20 người. Mỗi người 1 xách tay. Tôi còn mặc quân phục chưa kịp thay đã hối hả lên xe đi đến Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngũ nằm ở sát bờ sông. Ðến nơi thì đã thấy trên thuyền có gia đình của T. Tá Ph. khỏang hơn 10 người. Thuyền đầy đủ nhiên liệu, gạo và thực phẩm để cho cuộc hành trình khỏang 10 ngày.
Trên thuyền có 10 người lớn và gần 40 trẻ con, vội vã nhổ neo rời bến. Thuyền ra ngả Long Xuyên để đi Rạch Giá. Dọc bờ sông thỉnh thỏang có tiếng súng nổ. Tới gần Rạch Giá thì súng nổ nhiều hơn và có một số ghe thuyền chạy ngược chiều báo cho biết có cướp biển bắn giết người phía trước. Nghe vậy nên thuyền phải ngừng lại để dò hỏi tin tức. Lúc nầy tôi mới biết trên thuyền không ai biết thủy trình ra chỗ Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ. Anh Ph. chỉ mới biết chạy máy và bẻ lái thuyền nầy, vì anh nghĩ rằng biết chạy và lái rồi theo thuyền người ta đi chắc cũng tới Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Cần gì phải biết hướng, biết kinh nghiệm đi biển cho mệt. Nghe người ta nói từ bờ biển Rạch Giá tới chỗ Hạm Ðội 7 phải mất 2 ngày đêm. Trong khi thuyền không có địa bàn định hướng đi như người mù không thấy đường. Trên thuyền gần 50 nhân mạng giao cho người lái không biết gì !? Chồng thì như vậy còn bà vợ là dân thương mại, áp phe, luôn tính tóan lợi hại, lời lỗ, thấy gia đình tôi đi theo đông mà không có lợi gì bà tỏ vẻ không vui, thốt nhiều lời cộc cằn, kém lịch sự. Thấy thái độ đó tôi đã bất mãn, muốn lên bờ ngay, nên suốt cuộc hành trình gần 6 tiếng mà tôi không nói một lời. Ðến khi thuyền quay lạy Cần Thơ để tìm người hướng dẫn, dịp nầy tôi xin lên bờ cho gia đình đi đường bộ về. Anh Sảo ngỡ ngàng hỏi tôi tại sao? Tôi phải nêu lý do vì đi như thế nầy không được bảo đảm an ninh, phải hỏi dân để biết hướng, lối đi. Trước tiên phải tránh bọn cướp biển, bọn nầy rất nguy hiểm. Chúng sẵn sàng tàn sát cả một đòan thuyền để khỏi lộ tung tích. Có thể bọn nầy sẽ đón cướp ở cửa sông Cái. Nếu gặp chúng thì mình phải xử trí sao? Mấy đệ tử của anh súng lăm lăm trong tay như sẵn sàng chiến đấu. Nếu chúng thấy thuyền có súng là hạ sát liền, còn giấu cất vũ khí như thuyền thường dân, gặp chúng cứ để lấy gì thì lấy. Nếu chúng lục xét của cải mà thấy súng chúng cũng không tha mạng mấy người đàn ông. Ngược lại khi gặp chúng mình tấn công liền, bắn chúng trước; chỉ một tràng đạn bắn trả lại, hoặc một trái M.79 chắc chắn thuyền mình sẽ có chết, có thương vong vì thuyền mình không có bao cát che đạn, vậy cuộc hành trình nầy không an tòan, như người đánh bạc 99% thua. Chỉ 1% hy vọng may không gặp chúng, nhưng thuyền nầy mới và lớn như thế nầy là chúng biết thuyền vượt biên! Mà hễ thuyền vượt biên tức là của mấy ông lớn, là miếng mồi béo bở của bọn cướp biển! Còn quay về trình diện thì sẽ đi tù khổ sai tại các công trường, như kinh nghiệm tiếp thu năm 1954 tại Hà Nội. Ðối với sĩ quan, binh lính làm cho Pháp phải đi cải tạo ít nhất là 3 năm trở lên tùy theo cấp bậc và tội trạng. Viễn ảnh đói khổ vất vả tất nhiên không tránh khỏi.
Sau khi tôi phân tích sự đi và ở lại, anh Sảo có góp ý nếu chỉ cải tạo 5 năm vất vả để đổi sự yên ổn cho gia đình, anh sẵn sàng chịu đựng, chỉ sợ họ trả thù đến đời con mình chịu lấy!!! Ý kiến thêm (Chủ quan) Nếu có bị cải tạo chắc cũng không tới 3 năm, Mỹ sẽ can thiệp như trao trả tù binh theo công pháp quốc tế về tù binh ở Geneve hai bên ngừng chiến 3 năm sau sẽ trao trả tù binh, mất Miền Nam chắc vi phạm hòa đàm Ba-Lê có Quốc Tế công nhận. Mỹ đời nào để mất Miền Nam. Mất bao nhiêu tỷ bạc đô la và sinh mạng người Mỹ để bảo vêï Miền Nam VN coi như một tiền đồn Ðông Nam Á. Rồi còn tình cảm đồng minh …mà để mất không can thiệp thì cái thế giới Tự Do, Thế giới tư bản sẽ không còn nước nào liên minh với Mỹ nữa. Anh Sảo và tôi như hà hơi chút sinh khí cho nhau, như người chết đuối mà quơ được khúc củi cố ngoi, ráng chắc có cây ván lớn mà đeo ?!!
Kế đó tôi xin cho gia đình lên bờ về Cần Thơ, còn gia đình anh chị Sảo và gia đình T. Tá Ph. ở lại thuyền tiếp tục cuộc thủy trình. Chúng tôi về tới nhà anh chị Sảo ở Cần Thơ thì đã thấy cảnh hoang tàn như bị ăn cướp, đồ đạc bị dọn trống trơn do mấy chú giúp việc gia đình anh Sảo chia nhau lấy vì tưởng không còn ai trở lại nhà nầy nữa! Kế chiều tối đó thì thấy gia đình anh Sảo lục tục kéo về vì sợ bọn cướp biển và nguyên nhân chính là không ai biết thủy trình . . .?!
• ÐẦU HÀNG
Thế rồi việc gì phải đến nó sẽ đến! Ðêm 30 tháng 4 năm 1975 loa phóng thanh loan báo lệnh trình diện nộp vũ khí, tài liệu của Ngụy quân Ngụy quyền tại nhiều địa điểm cho từng cấp.
Cũng đêm hôm đó tôi được tin Tướng Hưng tự sát bằng súng lục tại tư dinh. Nghe nói Tướng Hưng mặc đồ đại lễ trắng với huy chương, tự bắn vào tim. Ðến khuya chúng tôi được tin Tướng Nam cũng tự sát bằng súng lục bắn vào thái dương (màng tang). Xác được quàn tại Quân Y Viện. Hai Tướng Tư Lệnh và Phó QÐ4 đều tự sát trong một đêm trước khi quân Giải Phóng vào Cần Thơ. Trong khi đó tại tư dinh Tướng Nam vẫn còn một trực thăng và phi hành đòan thường trực! Tôi xin nghiêng mình kính phục anh linh của hai vị không biết cái chết của qúi vị có mang lại lợi ích gì cho đất nước không? Nhưng với tinh thần bất khuất, không úy tử tham sanh của một cấp chỉ huy quân đội như tinh thần “võ sĩ đạo” của người Nhật. Không biết những kẻ trốn tránh trách nhiệm để được an thân, hưởng thụ bên vợ con tại nước ngòai còn chút liêm sỉ khi được tin nầy không?!
Nếu 2 Tướng Nam và Hưng muốn tiếp tục vinh hoa phú quí, thì chỉ 1 giờ bay với chiếc trực thăng sẵn có là qúi vị sẽ được tiếp đón tại Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ và chắc chắn sự sung sướng cho thể xác sẽ được thỏa mãn quãng đời còn lại của qúi vị. Sáng ngày 1 tháng 5 – 1975, tôi đi trình diện tại trại Phùng Ngọc Thảnh với sự hoang mang, dè dặt, thiếu tin tưởng. Tôi đứng ở cổng hỏi kỷ những người đi trình diện trước được về thong thả, tôi mới vào trình diện văn phòng Trung Ðòan 10 do MTGPMN phụ trách, với tay không và căn cước dân sự. Sau thủ tục khai báo lý lịch xong thì tôi được cấp một giấy chứng nhận “đã trình diện”. Giấy nầy thay cho giấy phép đi đường để về Bảo Lộc thăm nhà và lấy đồ đạc còn để lại từ tháng trước, không biết còn những gì? Sáng ngày 3 tháng 5-1975 gia đình tôi dồn lên chiếc xe Cadillac do tôi lái, thấy trong nhà anh Sảo còn 1 TV 19 inchs nên tôi mang về Sài Gòn hộ chị Sảo. Chiều đó tới Sài Gòn ở nhà anh chị Sảo.
• LẦN CHÓT VIẾNG GIA SẢN BỊ TIÊU TAN.
Ngày 4/5/1975, tôi đưa cháu Anh và bạn nó về Bảo Lộc, nhân dịp thăm nhà và tài sản ra sao? Ði Bảo Lộc dọc đường xe đò qua những trạm kiểm sóat, những thanh niên đeo băng đỏ trên cánh tay với súng M16 và AK kiểm sóat xe, họ hỏi giấy tờ từng người. Khi coi giấy chứng nhận trình diện của tôi kèm theo những lời hạch hỏi kém nhã nhặn, tôi thấy như mình lạc vào một xứ nào xa lạ, mặc dù vẫn phong cảnh, đồi núi như xưa của con đường Sài Gòn Ðà Lạt quen thuộc. Ðến chiều ba cậu cháu tôi tới nhà chị Cán ở Bảo Lộc như nhà hoang vô chủ, tới một lúc mới thấy con cháu gái ở sau nhà lên chào hỏi, gặp tôi nó mừng và cho biết mẹ nó (chị Cán) còn ở Vũng Tàu, chưa về. Sợ tối, cháu Anh cùng tôi hối hả đi thăm nhà. Ðường vào nhà tôi như đi qua bãi chiến trường vừa yên tiếng súng, tuy không có sự đổ nát của bom đạn, nhưng những cảnh tháo gỡ lấy của nhau khi người ta vắng nhà nhứt là những nhà đó là của Ngụy quân, Ngụy quyền thì coi như lấy hợp pháp. Qua những nhà anh Sáu (anh của Mạnh), nhà của Bích (Phònh Hành Chánh Tỉnh), nhà Trung Tá Bảng và nhà Ðại úy Mạnh, dãy nhà nầy đều căng khẩu hiệu chữ đỏ “Ủy Ban Quân Quản” – “Ủy Ban Nhân Dân” v.v…Những nhà nầy đã thành trụ sở, chắc nhà tôi cũng vậy? Ðường gần đến nhà cũng vắng người qua lại, hơi lạnh, khí hậu trong cảnh hoang tàn ảm đạm tại Thị Trấn Bảo Lộc như: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Xa xa mái nhà tôi ở đã thấy hàng rào trống thưa trước cửa nhà, chỗ garage xe hồi trước đã thấy một giường sắt lưới vuông nhỏ màu xanh của tôi không còn nệm, không chiếu, bên cạnh 1 chiếc bàn của bộ sa-lon bằng gõ. Tới cửa nhà thì thấy thấp thóang có 2 anh bộ đội ở trong nhà tôi bước ra. Một trong hai lên tiếng hỏi tôi. Sau khi trình giấy phép chứng nhận đã trình diện tại Cần Thơ và được phép thăm nhà tại Bảo Lộc. Hai anh bộ đội xem xong rồi bằng lòng cho cạâu cháu tôi vào nhà quan sát. Anh bộ đội dặn tôi: “Chỉ được xem mà thôi. Còn muốn nhận đồ đạc thì phải tới Ủy Ban Quân Quản ưng thuận.

Vì nghe nói nhà nầy là xương máu của nhân dân và phải được nhân dân bình nghị chấp thuận mới được thu hồi”. Tôi nghe đến đây đã thấy nản, không lẽ bỏ về ngay, nên cũng ráng vào trong xem. Qua phòng khách thấy mẫu hình Ðức Mẹ và Chúa Hài Ðồng đã bị đập bể nát để góc nhà. Thấy 2 bộ sa-lông và giường đều không có nệm. Tủ sắt trong buồng ngủ và các ô kéo đều được tháo bỏ xuống nền nhà, không còn một vật gì. Nhà bếp tủ lạnh mở toang trống trơn. Két sắt nặng nề trước ở trong buồng ngủ mà nay ở đằng sau bếp, nằm lật ngang, phía sau két bể một lỗ bằng tô canh do dấu vết của chất nổ phá thủng, chiếc đi văng thùng lật lên bên trong cũng không còn gì! Nhà kho trước khi đi còn hơn 10 bao gạo (bao tạ) và gần 30 bao than cũng không còn! Tủ kính trưng bày đồ kiểu cũng bể nát, vách sau bếp bị phá tan thành lối đi. Trong buồng ngủ thì cửa buồng bị khóa ngòai và anh bộ đội cho biết “trong buồng nầy chứa đồ của nhà nầy. Chìa khóa ở trên Ban giữ (!) Tới đây tôi cũng thấy tạm đủ, càng ở lâu càng chứng kiến thêm cảnh đau lòng, nên hai cậu cháu cáo từ ra về. Rủ nhau ra chợ Bảo Lộc ăn cơm, nhân tiện xem phố xá ra sao? Chợ Bảo Lộc lại càng tiêu điều như vừa qua trận hỏa họan, chỉ còn cột lều, cột nhà mà không thấy mái, cũng không có vách, trống lỏng…Tiệm hủ tiếu Bính Phát bây giờ thành quán cơm phần, cơm đĩa. Trông sang cửa hàng Kỳ Râu thấy để bảng “Hợp Tác Xã”. Nhà Quang Minh còn đóng cửa có dán dấu niêm phong ngòai. Hai cậu cháu ăn vội vàng rồi thả bộ đi xem vườn đất ở bên Nam Phương, tới nơi thì không thấy còn hàng rào và cọc rào bị nhổ hết trơn, nhà trú tạm bằng tôn cũng không còn. Những cây trồng như chuối, đu đủ trước xum xê nay cũng không còn. Khu trồng sầu riêng, lôm chôm và cà-phê nay bị nhổ trống trơn. Mấy mẫu vườn cây trái nay thành bãi đất trống như sân banh. Tôi gặp một người dân cho biết khu vuờn nầy sau ngày giải phóng, dân Nam Phương và các nơi khác tới đào sới…đến cục đá cũng gánh đi. Nghe nói Chính Quyền mới, qui họach tất cả khu nầy chỉ để trồng một thứ là trà mà thôi! Ngòai ra cây nào cũng phá hết, nên cho dân ai lấy được thứ gì cứ lấy!! Hai câu cháu ra tới lộ Thị Trấn đã thấy 3 xe GMC (của QÐ VNCH) chở đầy người, đa số là phụ nữ và thiếu nhi đi làm cỏ cho HTX, mỗi ngày làm được trả công bằng gạo !Qua một đêm thao thức tại Bảo Lộc tôi từ giả các cháu về Sài Gòn.
Ngày 6 tháng 5 -1975 gia đình tôi dọn đến 93 Trương Minh Ký Sài Gòn, nhà của anh Bích đi Mỹ để lại. Gia đình tôi ở được mấy ngày thì được lịnh của Ủy Ban Quân Quản thành phố HCM “Tất cả người trong nhà nầy phải dời đi giao lại UBQQ quản lý vì chủ nhà đã theo Mỹ đi ngọai quốc, tất cả tài sản nhà nầy thuộc tài sản nhà nước” Trước hôm có lệnh trục xuất đã có 1 tiểu đội bộ đội tới ở sân thượng nói là để giữ an ninh khu phố, nhưng chính là để giữ đồ trong nhà nầy, họ không cho đem ra ngòai một món đồ nào, đến bình nước cũng phải để lại !!!
• GIÀNH NHAU ÐĂNG KÝ ÐI Ở TÙ (!)
Tuần sau, loa phóng thanh loan báo cho các ngụy quân, ngụy quyền phải đăng ký học tập cải tạo. Từ cấp đại úy trở lên thì phải mang tiền ăn 1.370$ và đồ dùng cá nhân mỗi người một tháng.
Sáng ngày 9 tháng 5 – 1975 tôi đến số 91 Trần Hòang Quân Sài Gòn thì đã thấy tấp nập người vào đăng ký, thấy đông đủ các đàn anh trình diện, mặt người nào cũng phấn khởi như sợ chậm đăng ký sẽ bị mất điểm và có khi sẽ bị học khóa sau có thể sẽ lâu hơn khóa đầu vì kém tinh thần tích cực học tập cải tạo. Tôi chưa rõ tin nầy từ đâu mà ai cũng sốt sắng! Ngòai cửa đã thấy một số cấp tá đã đăng ký từ hôm qua, tức là ngày khởi sự thông báo mà hôm nay đến lấy giấy chứng nhận. Ðược biết thủ tục phải khai lý lịch, nộp tất cả giấy tờ như: Căn cước, bằng lái xe, bằng cấp văn hóa, văn bằng nghề nghiệp... Nếu có vũ khí và đồ quân dụng cũng phải nộp. Tôi thấy đông các cấp đàn anh ai cũng hăng hái, nên tôi cũng mạnh dạn vào làm thủ tục cải tạo. Khi vào cửa tôi gặp chú bộ đội gác cửa. Câu đầu tiên anh bộ đội người đại diện Cách Mạng đã tiếp tôi bằng câu: “Anh kia, bỏ kính xuống, vào đây không được đeo kính” Thấy chú bộ đội còn trẻ lứa tuổi con tôi mà lời nói hằn học như nói với kẻ thù ngòai mặt trận, khiến tôi cảm thấy sự đối xử như tù binh. Tôi nghĩ bụng đeo kính thì có gì đâu mà ngăn cấm, ảnh hưởng chuyện gián điệp Âu Châu nên tôi nghĩ chắc họ sợ tôi mang kính “Hồng Ngọai Tuyến” hay “tia lade” có thể nhìn thấy hoặc thiêu đốt tài liệu mật trong nầy. Vào bên trong tôi thấy đề bảng từng khu đăng ký cho các cấp sĩ quan; các băng ghế cấp tá đã đầy người, họ đang ngồi viết vào mẫu in lý lịch. Phía trong là quầy có "cán bộ cách mạng" phụ trách theo vùng và cấp bậc. Tôi điền xong mẫu khai lý lịch và nộp theo căn cước dân sự, bằng lái xe theo như yêu cầu trong tờ khai. Cán bộ kiểm sóat hồ sơ xong cấp cho mỗi người một giấy chứng nhận. Rồi về ở nhà đợi ngày thông báo đi “Học tập cải tạo”. Trong thời gian làm thủ tục giấy tờ ở đây tôi đã gặp rất đông bạn bè và các cấp đàn anh quen thuộc trong 4 vùng chiến thuật và dịp nầy những chuyện bên lề thời cuộc thì Sài Gòn sẽ là cửa khẩu Quốc Tế như Singaport, Hồng Kông, Miền Nam Việt Nam sẽ có Chính phủ Lâm Thời của MTGPMN gồm có 3 thành phần qui định như trong Hiệp Ước Paris. Tương lai các ngụy quân, ngụy quyền sau 1 tháng học tập cải tạo về sẽ làm việc cho “Cửa Khẩu Quốc Tế” Sài Gòn. Sẽ có các nước đầu tư kỹ nghệ, trang bị điện khí và cơ giới hóa nông nghiệp. Trong tương lai Miền Nam VN sẽ phát triển kinh tế kỹ nghệ không thua gì Nhật Bản!!! Những câu chuỵên thời sự hôm đăng ký học tập cải tạo đã phác họa một viễn ảnh cho tương lai sáng sủa, mặc dù chưa thấy triệu chứng cụ thể nào nhưng trong người như có luồng sinh khí mới, bớt bi quan chán nản. Phần lớn thấy các đàn anh hăng hái đi đăng ký học tập cải tạo. Tôi thầm nghĩ, không lẽ những ngừơi nầy đều mù tịt như mình sao? Chắc có điểm tựa nào cho tương lai mà mình chưa biết nên mới bi quan. “Có người có ta” – với lý luận: “Mỹ bắt tay ngầm với Trung Quốc nhờ làm trung gian hòa giải VN” Không lẽ Mỹ bỏ Việt Nam, bị lỗ vốn, biết bao nhân mạng tiền của cho cuộc chiến nầy, với uy tín của một siêu cường quốc lãnh đạo Thế Giới Tự Do !!!
Với kiến thức chính trị ngây thơ, thiển cận được hòa âm với luận điệu ru ngủ hiện thời… “Sài Gòn là nơi được Quốc Tế hóa vá cách mạng giải phóng rồi cũng cần nhân lực. Trí thức để tái thiết Miền Nam, xây dựng Miền Bắc nên Ngụy Quân, Ngụy Quyền sẽ sớm được khoan hồng để xử dụng. Nay đã thống nhất đất nước không lệ thuộc ngọai bang thì sự giam giữ những người chế độ cũ xét không còn cần thiết nữa…Và thời giam 1 tháng học tập cải tạo chỉ để thấu hiểu đường lối CM có thể hữu lý và nhu cầu hàn gắn vết thương chiến tranh, do đó tôi cũng yên tâm mà lo thu xếp gia đình được yên nơi, yên chỗ.
• LÁ THƯ ÐẦU NỐI LẠI TÌNH QUÊ HƯƠNG RUỘT THỊT
Hôm sau tôi nhận được lá thư đầu tiên của chú K. từ Hà Nội gửi vào, sau hơn 20 năm xa cách quê hương quyến thuộc. Trong thư chú hỏi thăm Mẹ như chưa biết tin mẹ tôi đã chết (1966). Tôi phúc đáp Mẹ tôi mất như thế nào cho bớt phần xúc động cho chú và gia đình. Các cậu mợ, dì …và cũng là thư tạm biệt để tôi đi học tập cải tạo vào ngày mai. Bức thư nầy tôi đã thuật lại từ ngày mẹ tôi vượt tuyến vào Nam năm 1960 được hơn 1 năm thì bị bắt giữ ở Cục ANQÐ trong khi tôi ở Nha Trang do lời khai của bà vợ lẽ đại tá Tỷ (QLVNCH) cùng mẹ tôi được Miền Bắc bố trí vào Nam làm công tác “Binh Vận” do đó tôi bị đổi xuất nghành An Ninh Quân Ðọâi ra đơn vị tác chiến ở Kontum. Mẹ tôi ở Sài gòn buồn nên đi thăm cô Tuyết (em con dì) ở Di Linh được ít hôm thì Mẹ tôi mất ở đó vì bịnh cảm gió. Khi đó tôi ở Kontum, được tin 3 ngày sau mới về đến Di Linh mà cũng không kịp, xác mẹ tôi đã đưa chôn từ buổi sáng! Viết đến đây tôi không khỏi xúc động khi nhớ đến mẹ! Lúc mẹ còn sống con không đựơc phụng dưỡng để báo hiếu! Trong thời gian cải tạo cứ đến ngày giỗ mẹ, con đã đốt hương lòng với nước mắt để tưởng nhớ mẹ hiền! Nếu mẹ đừng vì thương con quá, cứ ở yên ngoài Bắc, chắc mẹ cũng chưa chết! Chiến tranh đã lợi dụng mẹ tôi để làm công cụ, khiến tình mẫu tử phải chia lìa! Xin mẹ tha thứ cho đứa con lỗi đạo nầy đã bất lực để mẹ phải liên lụy mà chết oan!!!
• MỘT DỊP XUẤT NGOẠI
Sửa sọan hành trang cho ngày 14 tháng 6 – 1975 là ngày tôi trình diện học tập cải tạo tại trường Kỹ Thuật Phú Thọ Sài Gòn. Một tuần trước khi đi tôi tình cờ gặp Fernandot (người Phi Luật Tân) ở gần chợ Trương Minh Giảng. Năm 1973 Fernandot ở Cam Ranh làm cho hãng Sealand và là bạn của Francisco bạn tôi, cũng là người Phi Luật Tân quản lý nhà hàng Sea Men’s Club ở đảo Cam Ranh Gặp tôi y tỏ vẻ sửng sốt hỏi “Sao giờ nầy còn ở đây?” (bằng tiếng Anh, vì Y ít tiếng Việt). Tôi cười và hỏi lại: “Thế anh tưởng tôi phải đi đâu?” – “Over sea” (xuất ngọai) (“No transportations means, no money. What do I do for my family?) Không phương tiện, không tiền, tôi phải làm sao cho cả gia đình tôi được?
Kế đó Fernendot ngỏ ý muốn giúp đỡ tôi đi Phi Luật Tân, nếu tôi muốn hắn sẽ giúp đỡ, vì 2 ngày nữa sẽ có chuyến bay từ Phi Luật Tân đến đem đi, mà đi hợp pháp bằng giấy tờ chứng nhạân là kiều dân Phi Luật Tân cùng nhân viên tòa Ðại Sứ Phi Luật Tân phải rút về nước theo lệnh của Chính Phủ Cách Mạnh lâm Thời CHMNVN. Tôi hỏi hắn cả gia đình tôi đi được không? Thì hắn hỏi bao nhiêu người? Tôi cho biết hai vợ chồng tôi và 7 đứa con. Hắn đáp “nhiều quá hơi khó” để hắn hỏi lại. Còn nói một mình tôi thì dễ dàng vì tôi nói tiếng Anh khá có thể đồng hóa như người Phi Luật Tân được. Dễ dàng xin chứng nhận của Tòa Ðại Sứ. Tiếp đó hắn nói giá cả chỉ mất 200.000$ một người (bằng trị giá 1 xe honda 67 còn tốt). Thấy hắn giở giọng áp-phe là tôi đã mất cảm tình, hắn còn tính nếu cả gia dình tôi là 9 người (2 người lớn và 7 trẻ con) trả bằng Mỹ kim nếu không có trả bằng tiền Việt Nam tổng cộng là 1.800.000$, có thể bớt 200.000$ cho con nít nhỏ. Tôi nói để về bàn tính với gia đình sẽ trả lời anh ngày hôm sau, nếu không thấy tôi tới thì kể như không thành vì không đủ tiền. Hắn cho biết sẽ chờ tôi trong 2 ngày, địa chỉ của hắn trong hẻm nhà thờ Trương Minh Giảng – Hắn tả nhà hắn là tôi biết ngay vì trước tôi có vào khu nầy mấy lần.
• THÀ CHẾT CÙNG MỒ SỐNG CÙNG NHÀ
Về nhà tôi cho bà xã biết, thì bà ấy khuyên, tôi cứ đi một mình để tránh cải tạo, vả lại tiền mặt lúc đó chỉ còn đủ cho 1 người đi. Ðêm đó tôi suy nghĩ thao thức mà không ngủ đựoc vì viễn ảnh vợ con còn thơ dại, xưa nay chưa từng tự túc mưu sinh bao giờ, nay gặp họa. Nạn bỏ vợ con bơ vơ sao đành! Sau cùng quyết định ở lại với khẩu hiệu “Sống cùng nhà, chết cùng mồ”. Ðêm đó nhìn bầy con ngủ mà thương cảm! “Kể từ nay sẽ khổ vì cha các con bất tài, gàn dở không biết lo cho các con di tản, xuất ngọai. Ðã từng chung sống với ngừơi Mỹ, phong tục, tập quán, sinh họat đều khác biệt với người Á Ðông. Nhất là người VN ảnh hưởng với đạo Lão, Khổng, trái ngược với người Mỹ ưa thực tế. Cái gì cũng tính tóan, kể cả tình nghĩa vợ chồng, gia đình. Thủ tục cư trú trên đất Mỹ, theo Hiến Pháp sau 5 năm sẽ nhập tịch Mỹ. Còn sinh họat mưu sinh cho cuộc sống hằng ngày, với khả năng như ba cũng là thứ lao động bậc 2 và suốt đời cha, đời con cho đến đời cháu cũng chỉ là thứ “nô lệ mặc áo gấm”. Bất quá phương tiện đời sống có xe hơi, có nhà ở, so với nước mình là sang, nhưng ở nước Mỹ dân cùng đinh cũng có xe hơi, có nhà gạch ở, ấy là chưa kể nạn kỳ thị chủng tộc, người da trắng khinh người da đen, sống ngăn cách riêng biệt. Bây giờ nạn da vàng còn rẻ hơn người da đen vì thành kiến người VN là dân tộc hay ăn cắp vặt, mưu sĩ, không thành thật….Do một số lính Mỹ đã ở VN về nước truyền khẩu lại nên dân VN bị ảnh hưởng chung. Nay người VN di tản bên Mỹ quá đông thế nào cũng ở dồn một nơi trong một tiểu bang riêng biệt, sống một thời gian vì quyền lợi sẽ nhập tịch Mỹ. Sau nầy con cháu sẽ là người da vàng tên Mỹ, nói tiếng Mỹ, vô hình chung người VN mất gốc. Trải bao đời tiền nhân đã chiến đấu để bảo vệ đất nước, bảo vệ phong tục tập quán, bảo vệ đất đai mồ mã ông bà ! Mà nay con cháu, trước còn đi tỵ nạn để hy vọng trở về tranh đấu cho độc lập quê hương. Sau vì vật chất mà lột bỏ con người VN, bỏ quê hương!!!
• THẾ CỜ THÍ TỐT BẮT XE
Năm 1955 + 1975 Hai chục năm Mỹ đồng minh với Nam Việt Nam diễn tiến chính trị với những khía cạnh cho ta thấy:
Sau khi Pháp bị thất thủ Ðiện Biên Phủ, đi tới giải pháp chia đôi đất nước VN thì Mỹ đã có ý đồ thay thế Pháp vào VN để xây dựng Ðông Dương làm tiền đồn chống Cộng ở Ðông Nam Á. Chủ yếu chiến đấu với Bắc Việt để cầm chân Trung Cộng khỏi lan tràn vùng Ðông Nam Á. Trung Cộng với số dân hơn 700 triệu trong nước hồi đó và 300 triệu dân Trung Quốc sống lưu vong. Các nước trên thế giới đa số sống tạo được địa vị trong nền kinh tế thương mại trên các nước. Ðây là mối lo ngại của Mỹ được mệnh danh là “Ðạo quân thứ 5” đã trường kỳ mai phục trong các nước do đòan mật vụ quốc ngọai “Thanh Long” của Trung Cộng ngấm ngầm chi phối lãnh đạo trên mặt trận gián điệp.
Trong khi phe XHCN bất hòa vì 2 đàn anh (Liên Xô và Trung Cộng) đang trở thành thù địch nhau. Lợi dụng mối bất hòa nầy, Mỹ đã ve vãn Trung Cộng, thọat đầu bằng hình thức thể thao Quốc Tế đấu giao hữu với đội bóng bàn bên Mỹ qua, kế đó là mở đầu cuộc bang giao Trung Cộng – Mỹ bằng sự viếng thăm Trung Quốc của Tổng Thống Nixon.
Cuộc viếng thăm hữu nghị nầy có ảnh hưởng thay đổi đường lối đồng minh với 3 nước Ðông Dương (Việt Miên Lào) của Mỹ. Cuộc hòa đàm Ba-Lê đang găng, giằng co từng điểm thì bỗng nhiên dễ dàng, Mỹ nhượng bộ, buộc VNCH phải ký kết hiệp ước Ba-Lê có lợi cho phe Bắc Việt, vì tin có sự bảo lãnh giàn xếp ngầm, vì ơn nghĩa giúp Bắc Việt chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Ngược lại nếu Bắc Việt vì quyền lợi mà phản bội ơn nghĩa của Trung Cộng thì Mỹ đã dự trù sẵn kế họach kế tiếp là nhử mồi tham gây ly gián kế, tạo mối bất hòa cho Trung Quốc và Bắc Việt bằng con mồi Nam Việt Nam qua người Hoa Chợ Lớn đã được vỗ béo với bao chất bổ “Ðô-la”. Từ khi Mỹ rút quân khỏi VN, tất cả đồ quân dụng bỏ lại VN đã lần lượt vào tay người Hoa, từ vua giây kẽm gai Kim Qui đến các đồ quân dụng thực hiện trang bị cho quân đội Miền Nam, trước thì do Mỹ viện trợ mang qua, nay do người Hoa Chợ Lớn cung cấp như: gamelle, bi-đông, quân trang, giầy, lương khô, văn phòng phẩm v..v…
Ngòai ra các căn cứ Mỹ rút khỏi VN đều giành cho những người Hoa đấu thầu. Từ tàu hư, máy bay hư quân xa, công xa, sườn nhà sắt, conex vĩ sắt, vĩ nhôm, tôn, ván ép, cọc sắt, đồ điện, quạt máy đủ kiểu, TV, tủ lạnh, máy điều hòa không khí, tất cả đồ dùng trong nhà, cả những đống rác cũng được đấu thầu không bỏ sót một thứ gì! Bỗng nhiên người Hoa được Mỹ ân huệ chiếu cố đó cũng là một mắt xích của kế họach “Ly gián kế” đã được Mỹ bố trí phục kích sẵn: Bắt đầu chiến lược tháo chạy từ Lào, Campuchia rồi đến Quân khu l Miền Trung VN bằng di tản chiến thuật. Một đằng tan rã hoang mang bỏ chạy, một đằng tiến chiếm dễ dàng, không có sự kháng cự nào! Bên tiến chiếm cũng hoang mang, nghi ngờ kế “Trống thành của Khổng Minh”, bất chiến tự nhiên thành, vào Miền Nam thần tốc còn hơn Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh Thăng Long đời xưa (!) Thế rồi Miền Nam hòan tòan giải phóng chỉ trong vòng 1 tháng. Cờ MTDTGP và cờ Trung Cộng (nhà người Hoa) ở Miền Nam VN được treo la liệt khắp nơi. Máy may cờ được dịp may ngày may đêm, nhất là khu Chợ Lớn như là lãnh thổ của Trung Cộng ở Miền Nam VN, khu bất khả xâm phạm. Mấy ngày đầu quân Giải Phóng vào tiếp quản Sài Gòn, khu Chợ Lớn là chỗ chứa đồ qúi, là những kho an tòan của dân tư bản VN vì họ tin những lá cờ Trung Cộng treo ngòai cửa như lá bùa hộ mệnh không ai xét hỏi, thậm chí cả những cấp cao của chế độ cũ cũng xin tá túc, gửi đồ và tiền bạc trong những nhà người Hoa Chợ Lớn, biến Chợ Lớn thành khu tự trị có chính quyền riêng do người Hoa quản lý lấy. Tòa Ðại Sứ Trung Cộng ở Hà Nội đã cử người vào can thiệp thành khu vực Trung Quốc như chia phần Chợ lớn trong chiến thắng nầy. Thọat đầu Ủy Ban Quân Quản Thành phố HCM chưa nhận được chỉ thị của Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng nên đã tạm nhượng bộ vì tình hữu nghị Trung Việt. Sau thấy mỗi ngày mỗi công khai chứa đồ qúi của ngừơi VN gửi, kể cả những người trốn tránh học tập cải tạo, Ủy Ban Quân Quản Thành Phố HCM phải xin chỉ thị Trung Ương ở Hà Nội. Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng họp khẩn cấp ngày đêm để giải quyết; Thọat đầu là gửi Công Hàm yêu cầu Tòa Ðại Sứ Trung Quốc để VN không có khu Trung Quốc tự trị như vậy, nhưng Trung Quốc cho biết đó là cơ sở mà Trung Quốc đã bí mật xây dựng từ lâu tại Chợ Lớn. Sau Bộ Chính trị biểu quyết, cân nhắc và cán cân đã nghiêng vì mối lợi to lớn ở Miền Nam đang ở trong khu Chợ Lớn, do đó tình hữu nghị Việt Trung bị cắt đứt và trận đánh tư sản mại bản bắt đầu (một hình thức ăn cướp công khai); như vậy đã sa vào kế hoạch của Mỹ đã giăng lưới nhử mồi từ mấy năm trước. Kế đó Mỹ o bế Trung Quốc ngã hẳn về phe tư bản bằng 4 hiện đại hóa Trung Quốc. Lúc nầy trên bình diện quốc tế thì phe XHCN đã thắng chiếm được Ðông Dương làm bàn đạp phát triển XHCN tại Ðông Nam Á do VN trực tiếp đương đầu. Về phe tư bản Mỹ cũng thành công trong “Chiến lược tòan cầu” tuy có bị mất Ðông Dương, 60 triệu người để móc nối Trung Quốc ngả hẳn sang phe Tư Bản đổi 1 tỷ người Trung Quốc với công thức nắm được Trung Quốc là nắm được thế giới. Vì cả hoàn cầu loài người có trên 5 tỷ người. Thế là nhẹ mối lo của Mỹ về đạo quân thứ Năm là đạo quân bất trị dù có bom Newtron cũng không thể hủy diệt được! Thành công nầy phải giành cho Tổng Thống Nixon một vị trí cao qúi nhất, vì đã hy sinh cả danh dự trong vụ Watergate, để cho có lý do mất Ðông Dương!!!
• HỌC TẬP CẢI TẠO
Sáng ngày 14 tháng 6 – 1975 tôi trình diện học tập cải tạo tại trường Kỹ Thuật Phú Thọ Sài Gòn, đến nơi tôi gặp đông đủ sĩ quan cấp Thiếu Tá thuộc 4 vùng chiến thuật, đủ mọi binh chủng. Thủ tục nhập học đầu tiên là mấy cô Y Tá bộ đội giải phóng nhỏ nước tỏi vào mũi chúng tôi để phòng bệnh cúm; Ðóng tiền ăn 1.370$, khai bản sơ yếu lý lịch xong rồi được đưa vào mỗi phòng 30 người. Phòng nầy là lớp học cũ của trường Kỹ Thuật nên có sẵn bàn ghế kê sát làm sạp ngủ và bàn ăn. Ngày 2 bữa ăn trưa và chiều đều có xe nhà hàng Cao Lâu Mỹ Lệ Hoa, Ðồng Khánh và nhà hàng Soái Kinh Lâm, ba nhà hàng cao lâu danh tiếng nhất Chợ Lớn chở thức ăn nấu sẵn, có món ăn mặn, món xào, và canh. Trong xe treo bản thực đơn to tướng ghi đề những món ăn rất hấp dẫn, những soong thức ăn sáng bóng, nhân viên mặc đồng phục trắng, đội nón trắng như nhà hàng ăn lớn nhất tại Sài Gòn. Tưởng có sơn hào hải vị gì? Khi dọn lên bàn ăn thì có món tương hột kho với ít tóp mỡ là món ăn mặn. Món xào có su su xào lòng bò, còn món canh là rau cải với váng mỡ có nêm bột ngọt, ăn chừng nửa bữa là hết thức ăn, nửa bữa sau tòan là nước tương Tàu Vị Yểu với ớt, món nầy ăn không bao giờ thiếu. Cơm xong có một trái chuối tráng miệng, lọai chuuối tiêu thâm đen úng thối và nhão nhọet. Tôi ăn được 4 bữa cơm ở đây, tuy những bữa sau có thay đổi “mơ nuy” nhưng chất lượng cũng giống nhau, hầu như chỉ nặng phần trình diễn bề ngòai!
Sáng ngày 15 tháng 6 – 1975, tất cả mọi người được triệu tập vào lớp mà danh từ Cách Mạng gọi là “lên lớp”. Lớp tại hội trừơng như một rạp chiếu bóng chứa cả ngàn người ngồi chật ních. Tất cả hướng lên sân khấu được kê hàng bàn dài, ngang có khỏang 20 anh bô đội ngồi, không ai mang cấp bậc (quân hàm) nên không biết ai lớn ai nhỏ. Khi khai mạc lớp thì có anh bộ đội ngồi ngòai bìa (Khỏang 50 tuổi) ngồi tự giới thiệu anh la Trung Tá phụ trách lớp. Mở đầu bằng bài “phi lộ” của Cách Mạng đối với Ngụy Quân Ngụy Quyền, chính sách khoan hồng nhân đạo của Cách Mạng; “Các anh phải ý thức tiếp thu tư tưởng CM mà dứt khóat tư tưởng bán nước bằng cách học tập tốt, lao động tốt để lập công chuộc tội với Tổ Quốc thì mới được hưởng sự khoan hồng của Cách Mạng sớm trở về đòan tụ với gia đình, sống trong cộng đồng VN vv…Kế đó giải thích cho biết đây chỉ là điểm tập trung, còn sẽ đến địa điểm học tập đầy đủ tiện nghi hơn! Ðến 9 giờ tối hôm đó 16/5/1975 thì có lệnh “đột xuất hành quân chuyển trại” đến nơi học tập cải tạo, lao động, khi di chuyển “các anh phải chấp hành nghiêm túc kỷ luật dọc đường, trên xe không được đứng lên hay dời chỗ khi không được phép của cán bộ, không được ồn ào mất trật tự, nếu ai không tuân hành sẽ bị xử lý nghiêm trị, lẻ tất nhiên những phần tử nầy sẽ không được hưởng chế độ khoan hồng của CM vv…Tiếp đó mỗi đội 30 người lên 1 xe vận tải theo số chỉ định, mỗi xe có 2 anh bộ đội có súng AK và đèn pin, tất cả lên xe xong là vải bạt xe được phủ xuống che bít bùng , 30 người 1 xe với hành trang chỉ đủ ngồi “úp thìa” , Hai anh bộ đội ngồi trên thành xe, một anh đằng trước, một anh phía sau, súng cầm tay lăm lăm chỉa vào phía chúng tôi ngồi như sẵn sàng nhả đạn nếu ai muốn tẩu thóat và khẩu lệnh của 2 anh bộ đội nầy là “cấm tất cả mọi người trên xe không ai được nhốm lên hay kê mắt nhìn ra ngòai”. Dọc đường 2 anh bộ đội luôn miệng hò hét, rọi đèn “Anh kia quay mặt vào trong, anh nầy ngồi xẹp xuống sàn xe, không được ngồi chồm hổm vv…
Chúng tôi bắt đầu linh cảm thấy thật sự chúng tôi là tù chứ không phải là học viên cải tạo! Chúng tôi bắt đầu nghi ngờ CM, tinh thần bắt đầu căng thẳng! Ðòan xe chở chúng tôi khỏang 9 giờ 30 tối, xe đi không ngừng trong thành phố vì ánh đèn cho biết. Có anh đã lén nhìn qua kẻ hở chỗ rách của vãi bạt và lần lượt nói nhỏ cho nhau biết là xe hiện đang đi lanh quanh trong thành phố Sài Gòn, từ đường Trần Quốc Tỏan vào Chợ Lớn vòng bến Phạm Thế Hiển ra Bạch Ðằng, Hai Bà Trưng, cầu Bông qua chợ Bà Chiểu Gia Ðịnh tới ngã tư Bảy Hiền thẳng đường Bà Quẹo đi Trung Chánh, Hóc Môn vào thành Ông Năm của Liên Ðòan Công Binh VNCH, tới đây đúng 6 giờ sáng ngày 16 tháng 6 – 1975. Nếu tính đường đi từ trường Kỷ Thuật Phú Thọ đến Hóc Môn trại Liên Ðòan Công Binh chỉ mất 1 tiếng đồng hồ cho đọan đường khỏang 10 cây số, mà nay đi vòng vo mất gần 9 tiếng đồng hồ? Chắc đi theo kiểu chiến thuật “nghi binh” để đánh lạc hướng nếu có địch theo dõi cũng khó biết, riêng dân thành phố tưởng có nhiều xe vì từng đòan mà đi suốt đêm ! Chỗ nào cũng thấy xe đi qua? Khó đóan được xe đi đâu? Ngả nào?
Xe đến nơi tất cả mọi người tập họp thành 7 khối, mỗi khối thành 4 đội, mỗi đội 50 người, mà cứ hai đội ở chung một “Láng” (nhà trại) bằng gạch, bằng ván, tôn, và cả garage xe cũng thành “láng” ở luôn. Ða số nằm trên sàn ciment đều dùng đồ kê lót nằm cho bớt ẩm ướt. Trại nầy trước là Liên Ðòan Công Binh VNCH bỏ chạy nên đồ quân dụng còn nhiều và rác rưởi ngập lối đi, chúng tôi phải quét dọn 1 ngày mới có chỗ ngủ. Kế đó mỗi đội được phân công nấu ăn 2 ngày cho Khối; nghĩa là nửa đội nấu ăn cho 200 người trong một ngày. Trại nầy khỏang 1.500 người, tòan là cấp Thiếu Tá. Ðội tôi được cử nấu ăn ngày đầu nên mọi phương tiện phải tự “sáng tạo”, mỗi khẩu phần ăn là 700 grams gạo một ngày, thức ăn có tép khô, bí rợ, nước mắm, muối, còn củi thì kiếm ván hư trong trại mà đun, đồ nấu có 2 chảo, 4 soong “10”, và khỏang 100 thau nhôm. Hôm đầu phải kê đá làm bếp. Còn nước uống thì chở bằng 4 thùng futs (200 lít) lên trên chiếc xe jeep hư, không mui. Chảo nấu cơm không nắp đậy phải kiếm nửa tấm tôn lót bao gạo mà đậy, đè gạch cho kín hơi. Hôm đó tổ tôi nấu ăn ngòai sân lại gặp mưa nên cơm hôm đó gồm đủ 4 lọai: Chín, khét, nhão và sống. Ðến tối sinh họat đội tôi bị phê bình “công tác anh nuôi” kém, chưa hòan thành nhiệm vụ nên phải tiếp tục công tác sao cho “Ðạt”. Anh nuôi tốt mới được thay và tổ tôi lại bị “công tác anh nuôi” tiếp tục cho đến khi hòan thành. Vì bị kiểm thảo phê bình nên Ðội tôi, bầu tôi làm trưởng tóan “anh nuôi” nấu cơm với 8 người, phải “khắc phục” nấu chín 4 chảo cơm trong ngày, làm sao phát huy sáng kiến mà hòan thành nhiệm vụ cho đội khỏi bị phê bình. Tổ tôi chưa ai có kinh nghiệm nấu cơm, phải dời bếp vào trong nhà cho khuất gió, đun chảo nước sôi mới đổ gạo vào nấu sôi lâu mới chắt nước.
Hôm đó cơm chín mà nhão, bị khét chút đỉnh …Bảy bếp nấu cho 7 khối, chỉ có 15 người phục vụ anh nuôi cho mỗi bếp 1 ngày, còn người khác thì làm tạp dịch như dẫy cỏ, quét dọn doanh trại, Ðội thì đào hố tiêu, Ðội đào giếng, Ðội thì cuốc trồng tăng gia rau, ngô khoai, tùy theo đất mà trồng. Mỗi ngày làm việc 8 tiếng theo kẻng báo; sáng kẻng báo thức 5 giờ tập thể dục 30 phút. Vệ sinh trại và cá nhân 30 phút. Ðúng 6 giờ bắt đầu lao động đến 10 giờ 30 nghỉ ăn cơm trưa đến 1 giờ lao động, chiếu đến 4 giờ 30 nghỉ, họp phê bình ngày lao động để rút ưu khuyết điểm, kế đó sạch sẽ cá nhân đến 6 giờ chiều nghỉ ăn cơm, đến 8 giờ tối thì sinh họat từng Ðội theo cách thức chỉ dẫn của các Khối trưởng, các Ðội trưởng, Ðội phó đã được trên “Ban” hướng dẫn cách sinh họat, cách kiểm điểm công tác, phê bình, tự phê bình cá nhân theo đường lối CM. Tất cả mọi người lần lượt tự phê bình và phát biểu ý kiến có ghi vào biên bản để trình “Ban” vào mỗi buổi sáng. Các buổi trưa nghỉ thì tập hát bằng những bài ca CM và “Quốc Ca” như Giải Phóng Miền Nam, Hồ Chí Minh muôn năm vv…
Một tuần lễ trôi qua chỉ là công tác ổn định nơi ăn chốn ở, kiểm kê hành trang cá nhân, không ai được giữ tư trang như đồng hồ, cà rá, giây chuyền, viết máy, kính mát, ngọai trừ kính cận. Còn tiền bạc cũng đều phải nộp tất cả, kê khai vào sổ người gửi, phải ký tên chịu trách nhiệm nếu còn cất giấu vật gì mà không “tự giác” đăng ký gửi nếu xét thấy sẽ bị xử lý và không được chế độ khoan hồng vv… Nếu Khối, Ðội nào làm tốt sẽ được đăng ký mua đồ, nghĩa là được rút tiền gửi cán bộ mua đồ mỗi tuần 1 lần, mua hạn định mỗi người được mua từ 10$ đế 20$ (tiền Miền Nam cũ). Những đồ gửi mua gồm có: Giấy trắng, tập để viết, viết bi, mực viết, thuốc uống, thuốc hút, đường cục và sà bông. Ngòai trừ mua thuốc trị bịnh phải có bác sĩ xác nhận bệnh trạng sẽ được mua theo nhu cầu. Tuần lễ sau thì chế độ ăn uống bị giảm xuống theo tiêu chuẩn ăn mỗi người còn 50 grams gạo 1 ngày. Nên nhiều người ăn khỏe đã thấy đói vì ngòai 2 bữa ăn chính không còn gì ăn thêm. Công việc vệ sinh quanh Láng mỗi Khối phải “tranh thủ” làm ngòai giờ qui định. Chúng tôi bắt đầu học tập chính trị. Lớp học là một hội trường sân khấu cũ được kê thêm các ống nước làm ghế ngồi cho các học viên chứa được trên 1.000 người. Phải chia lớp học thành 2 lớp vì sau 1 tuần có nhập thêm khỏang 1.000 người cấp Ðại Úy và Thiếu Tá ở bên trại “Bộ Lư” cách 1 đường xe và 2 lớp rào kẻm gai. Nội Qui thì cấm quan hệ với nhau, nhưng trên thực tế vẫn có kẻ hở để gặp nhau khi lãnh thực phẩm ở nhà kho, hoặc đôi khi làm lao động gần nhau, nên mọi tin tức từ ngòai vào trại đều trao đổi cho nhau biết vv…
Học tập chính trị do một số anh bộ đội lớn tuổi, anh nào cũng mang sắc da, cũng cặp giấy, không thấy mang “quân hàm” nên không rõ cấp bậc. Bài học đầu tiên lên lớp tựa đề: “Ðế quốc Mỹ xâm lược nước ta là kẻ thù của nhân ta”. Thuyết trình viên chỉ đọc bài cho học viên chép với phần giải thích những từ CM. Xung quanh hội trường có khỏang 20 anh bộ đội làm phụ giảng viên để giải thích và kiểm tra lớp học, nhất là để đánh thức những những anh ngủ gật.
Thuyết trình viên đọc xong bài chép là hết giờ. Không ai có thể hỏi gì cả, về Láng để thảo luận Tổ; mỗi Ðội chia làm 4 Tổ, mỗi Tổ có 12 người. Các Khối Trưởng, Khối Phó, Ðội Trưởng, Ðội Phó và các Tổ Trưởng sau mỗi bài học thì được Ban mời ở lại để “bồi dưỡng” (tức học thêm) khỏang 1, 2 tiếng tùy theo bài dài ngắn để về hướng dẫn, điều khiển thảo luận Tổ. Hể có sinh họat hoặc học tập đều có cử thư ký lập biên bản, ghi đầy đủ từng lời phát biểu, từng câu hỏi của mỗi người và có tự giải đáp để trình Ban. Tất cả những thắc mắc nếu tổ không giải đáp được thì ghi vào biên bản và sẽ được giải thích ngay hôm sau khi lên lớp. Bao giờ cùng giải đáp thắc mắc hết bài cũ mới học bài mới. Thường 1 bài học phải 2 ngày thảo luận Tổ + Ðội, một ngày Ban tổng kết và giải đáp, kết quảù là 1 ngày làm bản “thu họach”, tức là Ban ra câu hỏi, tất cả học viên về làm bài “thu họach” rồi nạp cho Ban. Ban sẽ lên lớp phê bình bài dở nhất và “biểu dương” bài hay nhất. Có khi viết “thu họach” trong một bài mà 2, 3 lần cả tuần lễ học, thảo luận lại cho 1 bài vì chưa “đạt”, chưa đào sâu suy nghĩ và tiếp theo là 1 bài “nhận thức” hồi còn làm “tay sai cho đế quốc Mỹ những gì? Ðã được Mỹ huấn luyện những gì? Những âm mưu của đế quốc Mỹ đã thực hiện tại VN và thế giới mà mỗi cá nhân được biết, cùng những âm mưu Mỹ gài lại VN hiện nay như thế nào?. Trong bài “nhận thức” tư tưởng phải tự giác nhìn nhận tội lỗi. Tội càng nhiều, phân tích càng rõ càng tốt, càng thành thực càng sớm thức tỉnh thì sớm được khoan hồng của CM. Kết luận là những động cơ nào thúc đẩy làm tay sai cho Ðế Quốc Mỹ? Thời gian phục vụ đế quốc Mỹ đã gây những tội ác nào với CM tức là với nhân dân vì nhân dân là CM, nhận thức tư tưởng phải tiếp thu ý thức CM và phải đứng vào lập trường CM dân tộc mà đánh giá. Phải dứt khóat tư tưởng cũ bằng cách thuật cho đúng, thuật cho hết, được ví như con chiên đạo Thiên Chúa có xưng hết tội mới được giải hết tội!!!
• MỨC HỌC TẬP CẢI TẠO TIẾN BỘ

Học chính trị bài 2 : “Ngụy Quyền là tay sai đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân ta”.

Bài số 3 : “Quân Ngụy là công cụ của đế quốc Mỹ và tay sai Ngụy Quyền để xâm lược và nô dịch nhân dân VN”.
Hai bài nầy ôn lại lịch sử VN từ năm 1954 Mỹ đã có ý đồ hất cẳng Pháp để thay đổi chính trường tại Ðông Dương nên Mỹ bỏ rơi không tiếp cứu Pháp tại chiến trường Ðiện Biên Phủ. Kế họach của Mỹ muốn xây dựng VN làm tiền đồn chống Cộng ở Ðông Nam Á, để cầm chân Trung Quốc đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa, nhất là đồ quân dụng của thế chiến l và ll đang bị kẹt vì không có thị trường tiêu thụ vv…(?)!
Ba bài chính trị trên được học tập thảo lụân rất kỷ kéo dài 3 tháng. Có những buổi thảo luận Tổ có cả “Ban” đến tham dự. Ban phê bình nhiều bài thu họach còn nói “chung chung” Còn tránh né, chưa thật tình đào sâu suy nghĩ, chưa tiếp thu được “ý thức CM”, chưa dứt khóat tư tưởng cũ, nên trên Ban cử cán bộ tới các Tổ học tập để giúp đỡ những anh còn yếu kém.
Dịp nầy cán bộ phê bình tôi là yếu kém nhất trong tổ, chưa thật tình dứt khoát tư tưởng còn trung thành với chế độ cũ như nói tới Diệm, Thiệu, tôi còn gọi Tổng Thống Diệm, Tổng Thống Thiệu, sao không gọi thằng Diệm, thằng Thiệu vì chúng là Việt gian bán nước mà còn kính trọng cái gì? Cách khoảng 1 tuần sau trong buổi học tập thảo luận trong Tổ. Tổ tôi được danh dự “vinh dự” đón tiếp vị Trung Tá bộ đội, cán bộ chỉ huy trên Ban, có đeo quân hàm Trung Tá đàng hoàng, đây là lần đầu tiên thấy đeo quân hàm, vị Trung Tá nầy bước vô yêu cầu Tổ tôi cứ tiếp tục thảo luận, qua mấy người phát biểu ý kiến rồi đến lượt tôi, đặc biệt lần nầy tôi được vị Trung Tá nầy “chiếu cố tận tình”; Tôi như 1 tội phạm trước vành móng ngựa tòa án, được vị nầy quay hỏi, chất vấn cùng qúi bạn Tổ tôi tăng cường tấn công “kiếm điểm”. Tôi bị “bề hội đồng” gần 4 giờ đồng hồ, từ lý lịch chức vụ, đã từng làm Trưởng Ty ANQÐ mà trong bài thu họach cũng như phát biểu ý kiến còn chung chung, chưa nhiệt tình tích cực! Kế tiếp là 1 câu hỏi điển hình hôm nay được vị Trung Tá nêu ra là: “Trong thời gian làm việc với bọn Mỹ Ngụy anh đã tra tấn bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ CM? Ðã lập thành tích chống Cộng như thế nào mà được làm Trưởng Ty ANQÐ từ khi cấp còn Ðại Úy? Trong khi cấp Trưởng Ty ANQÐ các nơi từ Thiếu Tá đến Trung Tá? Tôi nói:
- Truớc khi trả lời câu hỏi của cán bộ, có thể cán bộ cho phép tôi đựơc phát biểu ý kiến về những điểm thắc mắc của tôi có liên hoan đến chính sách khoan hồng của CM? Sở dĩ tôi chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến vì còn những khúc mắc chưa thông và còn sợ những “chiếc mũ” sẵn sàng chụp lên đầu tôi nếu tôi không ca tụng CM, trên thực tế tôi chưa nhận thức được CM để ca tụng. Riêng điều “Tín” của CM khiến tôi nghi ngờ vì chưa thấy gì cụ thể về chính sách khoan hồng …
Nói tới đây tôi đã bị ngắt lời vì anh em nhao nhao phản đối tấn công tôi tới tấp. Nào là tôi còn “ngoan cố” ! Chưa dứt khóat lập trường, còn chờ đợi sự giải thóat của đế quốc Mỹ, còn tư tưởng phản động v.v… Thái độ tôi lúc đó “phớt tỉnh” mặt “lạnh như tiền” làm thinh nhìn bằng cặp mắt khinh miệt vào những người đồng cảnh của tôi mà tôi tưởng là bạn “đồng chí”!! Thấy tôi im lặng qúa lâu nên vị Trung Tá nầy lên tiếng yêu cầu tôi cứ mạnh dạn phát biểu ý kiến, nếu sai tập thể sẽ góp ý xây dựng. Ðược quyền phát biểu ý kiến trung thực của lòng mình, kể cả những thắc mắc nghi ngờ đường lối chính sách của CM và sau buổi thảo luận nầy sẽ không còn ai căn cứ vào những câu thảo luận mà phê bình hoặc kết án, anh cứ yên tâm. Ðược cán bộ bảo lãnh tôi mạnh dạn nêu ra nguyên nhân không tin tưởng vào chính sách khoan hồng vì CM không tôn trọng lời hứa trong thông cáo trước khi đăng ký học tập cải tạo, tôi đã được nghe thông cáo trên đài phát thanh của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố HCM cho biết thời gian học tập là 1 tháng mà tới hôm nay đã hơn 3 tháng mà không thấy triệu chứng nào chứng tỏ chúng tôi biết ngày về. Tôi đã hỏi mấy anh cán bộ đại diện CM ở đây vẫn là những câu trả lời mơ hồ như nhau, nghĩa là: “Về sớm hay muộn là do các anh cải tạo tốt, đã tiến bộ, đạt tiêu chuẩn cải tạo, đã dứt khóat tư tưởng cũ và tiếp thu được ý thức tư tưởng CM. Nếu đạt tốt thì giữ các anh làm chi cho hao tốn ngân qũy và nhân lực của bộ đội đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, mà phải hướng dẫn các anh sao cho đạt được “cải tạo tốt” đó là sự khoan hồng của CM đối với các anh, hiện CM đang cần nhân lực trí thức của các anh để hàn gắn vết thương chiến tranh vv…Thấy tiêu chuẩn CM qúa bao la, nếu CM không muốn tha chúng tôi, chỉ việc nói là chưa tiến bộ, chưa tiếp thu CM, chưa cải tạo tốt là chúng tôi ở tù chung thân, cải tạo cho đến chết! Trên thực tế, CM muốn cho chúng tôi tin tưởng mà an tâm học tập cải tạo thì xin cho chúng tôi biết cái mức cải tạo tiến bộ đến đâu? Phải như thế nào? Người đạt tiêu chuẩn cải tạo phải như thế nào? Ðể chúng tôi dốc tâm nỗ lực cải tạo thành người tiến bộ v.v… Còn câu hỏi của cán bộ về chức Trưởng Ty ANQÐ của tôi thì chẳng phải do thành tích chống Cộng mà do khả năng hoặc phe cánh… thời nào cũng vậy cả! Còn về số lượng cán bộ chiến sĩ CM mà tôi tra tấn? Xin lỗi cán bộ hỏi như vậy là cán bộ chưa nắm được tổ chức điều hành của chúng tôi. Tôi là Trưởng Ty ANQÐ phụ trách 1 Tỉnh, 1 Tiểu Khu dưới quyền tôi chỉ huy là cả 100 người, riêng cấp sĩ quan từ Chuẩn Úy đến Ðại Úy có đến vài ba chục người, mỗi người mỗi nhiệm vụ theo các Ban, các Chi ANQÐ, tôi chỉ hướng dẫn chỉ huy tổng quát cùng kiểm sóat đôn đốc cho hòan thành nhiệm vụ. Chỉ huy bằng văn kiện nên hằng ngày biết bao văn thư, chỉ thị hồ sơ do đó tôi không có thì giờ để để trực tiếp tra tấn, bất quá với kết quả điều tra trong hồ sơ thì thông thường đến vị sĩ quan phụ tá của tôi cũng đủ khã năng giải quyết. Ngọai trừ bắt được can phạm quan trọng thì tôi mới để ý, mà từ ngày tôi làm Trưởng Ty đến nay chưa bắt được chính cống quả tang cán bộ Việt Cộng bao giờ. Chỉ toàn những thứ nghi ngờ đề phòng liên quan đến Binh Vận mà thôi! Còn về thành tích chống Cộng như thế nào? Xin lỗi cán bộ, thời ông Diệm chống Cộng cao điểm nhất trong Miền Nam, ra ngòai đường có ai dám nói không chống Cộng lúc bấy giờ không? Có một điều bây giờ tôi vẫn không chối cãi là trong chế độ cũ tôi chống Cộng triệt để. Có phải khai như thế là phản động, là có tội với CM không? Thì tôi sẵn sàng nhận án tội đó! Còn hiện bây giờ tôi đang tiếp thu tư tưởng CM, đang phân tích đâu là chánh nghĩa. Theo ý kiến tập thể phê bình tôi còn lạc hậu, chậm tiến, còn nhiều sai trái, tôi cũng cần tập thể xây dựng giúp đỡ tôi được tiến bộ theo kịp với anh em vv…
Ðến đây Trung Tá CM giải thích là “Ða số các anh quá chủ quan nên nghe lầm thông cáo của Ủy Ban Quân Quản; thông báo chỉ nói các anh mang 1 tháng tiền ăn và đồ dùng hành trang cho 1 tháng; có nghĩa là ngòai 1 tháng đã có CM lo cho các anh tất cả, chứ đâu có câu nào xác định thời gian học tập cải tạo 1 tháng đâu?” Nghe tới đây tôi lại nghĩ thầm, lại thua kỹ thuật “chơi chữ” của CM rồi! Cuộc thảo luận “xây dựng tôi” được thông qua. Tôi thấy những từ CM ở đâu mà nhập cảng mau lẹ vào các bạn tôi như là “đảng viên CS”. So sánh tôi thấy mình không “thức thời” còn kém anh em xa lắm !!!

“Ðế Quốc Mỹ và tay sai đã thất bại hòan tòan”!? Ðó là đề tài bài 4 . Bài nầy nêu thời kỳ Mỹ vào VN thay thế Pháp, đưa Ngô Ðình Diệm đã được Mỹ huấn luyện về thay thế Bảo Ðại, xây dựng phong trào chống Cộng bằng Ðảng Cần Lao Nhân Vị, Phong Trào Cách Mang Quốc Gia, gom dân ở những vùng khó kiểm sóat thành các Trại Dinh Ðiền, các Khu Trù Mật và những Aáp Chiến Lược được coi là quốc sách để thanh lọc các thành viên CM đang lên, đang được “nhân dân” ủng hộ, nhằm cô lập CM tách xa quần chúng, đặt Cộng sản ra ngòai vòng pháp luật, đem máy chém đi các nơi với luật 10/59 do Tòa Án Quân Sự mặt trận xử, hòng tiêu diệt CM, đó là diện đấu tranh chánh trị. Còn về chiến thuật, chiến lược, Mỹ đã tổ chức huấn luyện quân đội thành công cụ chiến tranh; đi từ chiến tranh “Cục bộ” đến chiến tranh “Qui Ước”. Aùp dụng chiến thuật trực thăng vận đánh phá các vùng mật khu Giải Phóng, đồng thời tấn công oanh tạc Miền Bắc, lấy lý do “ Bắc Việt xâm nhập “Vũng Rô” với bao vũ khí, quân dụng được triển lãm. Tàu “Mắc-Ðốc” của Mỹ bị Việt Cộng tấn công nên Mỹ mượn cớ để trả đủa. Miền Bắc liên tiếp bị oanh tạc và đỉnh cao nhất là cuối năm 1972 với 12 ngày đêm Hà Nội liên tiếp bị dội bom trên 100 mục tiêu với đủ các lọai máy bay Cánh Cụp, Cánh xòe và B52 trải thảm hầu hũy diệt Miền Bắc thành thời kỳ “đồ đá”, đồng thời làm áp lực chính trị cho cuộc hòa đàm Ba-Lê. Tại Miền Nam Mỹ và quân đồng minh đưa nửa triệu quân vào đánh phá CM để Ngụy Quyền, Ngụy Quân ổn định chính trị đang lủng củng do Mỹ thanh lọc, tuyển lựa tay sai. Vì chính sách của Mỹ phi nghĩa đã trắng trợn xâm lược Việt Nam nên bị cả thế giới phản đối lên án và ngay cả nhân dân Mỹ cũng phản đối gây thành phong trào “phản chiến”, biểu tình chống đối. Ðặc biệt nước Mỹ bị khủng hỏang chính trị bằng vụ: Watergate nên Mỹ thất bại phải rút quân và bằng lòng nhượng bộ, hòa đàm Ba-Lê với VN (CM) Nhưng Mỹ vẫn ngoan cố, định dùng áp lực quân sự để hổ trợ hòa đàm bằng cách vừa “đàm” vừa “đánh” trang bị quân Miền Nam lên tới cả triệu quân để “Việt Nam hóa chiến tranh” với chiến lược “giành dân lấn đất” Về đấu tranh chính trị, Mỹ đã khoác cái áo chính trị cho Miền Nam thay thế chính sách “Thực dân cũ” của Pháp thành chính sách “Thực dân mới”, thay đổi những tay sai khó bảo bằng cách “thay ngựa giữa dòng” qua những cuộc đảo chánh, chỉnh lý do Mỹ giật dây, bỏ tiền mua chuộc các đảng phái chính trị, gài người vào các tôn giáo, các đòan thể chính trị nhằm độc quyền thao túng chính trị Miền Nam bằng những cuộc biểu tình, xuống đường, phong trào phản chiến vv… “Truyền thống anh hùng bất khuất chống xâm lược và đòan kết của dân tộc Việt Nam” Ðó là đề tài thứ 5.
Bài nầy nêu thành tích chiến đấu chống xâm lăng của CM với 3 đế quốc: Nhật, Pháp và đế quốc Mỹ. Nêu từng thời gian xâm lăng VN, hầu áp đặt, nô dịch … Nhưng với phong trào Cách Mạng thế giới đang dâng lên, đã kết hợp với đảng Lao Ðộng VN do Hồ Chủ Tịch lãnh đạo đã đưa nước VN vào khúc quanh lịch sử, của vinh quang nhất so từ trước đến nay.
Trong bài nầy đã bình luận lịch sử Việt Nam từ đời Vua Hùng dựng nước, qua nhiều triều đại chống xâm lăng nếu có thành công thì vẫn lập lại chế độ quân chủ, cha truyền con nối, vẫn triều cống Trung Quốc xin phong Vương như một chư hầu. Nhân dân vẫn bị nạn Phong Kiến, địa chủ cường hào ác bá, vẫn hình thức “bình cũ rượu mới” khiến cho dân tộc VN chưa bao giờ thật sự hưởng hạnh phúc của chế độ dân chủ. Thậm chí có những vị vua vì quyền lợi cá nhân, họ tộc mà đang tâm cầu viện ngọai bang để: “Cõng rắn cắn gà nhà” như vua Lê Chiêu Thống và vua Nguyễn Aùnh Gia Long đều cầu cứu ngọai bang để ngọai quốc có cớ xăm lăng nước ta.
Thảo kuận bài nầy tôi cũng nêu thời Ngô đình Dịêm phát động phong trào chống Cộng cũng lên án Hồ Chí Minh đã ký hiệo ước 9/3 /1946 tại Fontaine Bleau để quân đội Pháp được dịp đưa quân vào VN lần thứ 2 thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch do Tướng Lư Hán chỉ huy tước vũ khí quân đội Nhật đầu hàng! Như vậy Hồ Chủ Tịch cũng phạm tội cầu viện ngọai bang “cõng rắn cắn gà nhà” ? Câu hỏi nầy được cán bộ giải thích như sau: “Trước bối cảnh lịch sử VN năm 1945 có liên quan đến tình hình thế giới theo phân định của Liên Hiệp Quốc thì quân đội Trung Hoa lúc bấy giờ là một trong ngũ cường quốc thế giới được phân nhiệm vụ tước khí giới quân đội Nhật Bản ở VN bị đầu hàng vô điều kiện bởi hai trái bom nguyên tử do Mỹ oanh tạc vào 2 thành phố của Nhật là Hiroshima và Nagasaki. Số quân Trung Hoa được Liên Hiệp Quốc ấn định vào VN để tước võ khí quân Nhật do Tướng Lư Hán chỉ huy đã đưa quân vào VN quá hạn định, kéo cả dân quân đói của mấy Tỉnh Trung Hoa cùng một số quân tay sai VN như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam vv… cùng theo vào VN để lợi dụng thời cơ với âm mưu lật đổ Chính Quyền VN, nên đã gây nhiều khó khăn, với áp lực quân sự sẵn có để sách nhiễu nhân dân VN. Về mặt kinh tế, trong khi Miền Bắc hơn 1 triệu dân chết đói. Ðang lâm cảnh đói khổ vì bị quân Nhật triệt hạ mùa màng để trồng đay (cây bố). Ðồng thời áp lực chính trị đang đè nặng lên Chính Phủ Lâm Thời VN do Hồ Chủ Tịch lãnh đạo, nên Hồ Chủ Tịch phải thân hành đi ngọai giao vận động với Liệp Quốc để quân đội Pháp vào VN thay thế quân đội Trung Hoa. Ðây là một sự khôn khéo về chính trị của Hồ Chủ Tịch để nhứt thời giải quyết ngay cho đất nước đang lâm nguy khỏi cảnh đói khổ và áp lực chính trị lẫn quân sự của Nguyễn Hải Thần. Trước bối cảnh lịch sử VN lúc bấy giờ ví như cháy nhà, nếu chậm chữa sẽ không kịp, như vậy trong nhiều những khó khăn của đất nước, ta phải lựa một khó khăn nhẹ hơn mà giải quyết cấp thời. Không thể ghép chung Hồ Chủ Tịch với Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh (Gia Long) Và Miền Nam Chính Quyền Nguyễn Khánh đã ký hiệp ước VuÕng Tàu để quân đội Mỹ được kéo vào VN bằng cửa khẩu Cam Ranh và Ðà Nẵng vv… Phân tích lịch sử VN bằng cách khách quan thì Hồ Chủ Tịch là vị anh hùng cứu nguy dân tộc, đưa lịch sử VN đến vinh quang nhất so từ trước đến nay!
Bài học số 6 : “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân VN đã giành được thắng lợi hòan tòan”
Mỹ đã có âm mưu xâm lược nước ta từ lâu, nên đã nuôi dưỡng huấn luyện tay sai Ngụy Quyền và Ngụy Quân để hất cẳng Pháp với chiêu bài “Thực Dân Mới”, tạo chính quyền bù nhìn do Mỹ đặt ra khiến VN thành tiền đồn chống Cộng ở Ðông Nam Á để “ thay đổi màu da trên xác chết”, mở rộng thị trường Ðông Nam Á tiêu thụ hàng hóa ế thừa, mặt khác sưu tầm tài lực, vật lực, để vơ vét. Về nhân lực thì thuê mướn với giá rẽ mạt …Tóm lại cả 3 đế quốc đều thất bại tại VN vì nhân dân ta có chính nghĩa nên được cả thế giới lòai người ủng hộ, kết hợp với sự lãnh đạo sáng suốt của CM ta đã huy động dược sức mạnh của tòan dân hưởng ứng theo truyền thống lịch sử kiên cường bất khuất thành một khối đòan kết chống xâm lăng nên đã đem lại thắng lợi hòan tòan!
Bài học số 7 ø: “Nhiệm vụ CM Miền Nam trong giai đọan hiện nay”:
Do ÐQ Mỹ và bè kũ tay sai đã để lại tại Miền Nam biết bao nhiêu tệ trạng xã hội, cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm sì ke, ma túy ăn bám và phá họai xã hội . Nay CM giải phóng xong phải hàn gắn vết thương chiến tranh vừa xây dựng XHCN, giải quyết, tẩy sửa từ từ những tàn tích do đế quốc để lại (!)
Bài học số 8 : “Lao Ðộng là vinh quang”
Tóm tắt lao động là nghĩa vụ là bổn phận của mọi người. Lao động là nguồn sáng tạo ra của cải vật chất và thực phẩm để nuôi sống và phục vụ lòai người. Lao động còn tạo ra nhiều phát minh những kỹ thuật phục vụ nguồn sống. Phương ngôn : “Sự làm việc giúp ta tránh được ba mối hại lớn là: Lười biếng, cùng túng và thói hư .”
Bài số 9 : “Chính sách của CM đối với Ngụy Quân, Ngụy Quyền ra trình diện”
Trách nhiệm của người cải tạo trước CM và nhân dân : Cải tạo là chính sách khoan hồng, nhân đạo để cải tạo quân Ngụy thành người lương thiện, hữu ích sau nầy và chỉ có con đường duy nhất cho Nhụy Quân và Ngụy Quyền là cải tạo mới được sống về đòan tụ với gia đình với cộng đồng dân tộc. Nếu từ chối cải tạo sẽ bị cưởng bách và nghiêm trị và dĩ nhiên là không được hưởng chế độ khoan hồng vv…
Bài số 10 : “Hiện tượng thống nhất thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử”
Nội dung bài nầy có tính cách điều chỉnh hợp lệ tình trạng pháp lý trong nước và Quốc Tế cho danh chính ngôn thuận vv…
Học xong 10 bài chính trị căn bản nầy là chúng tôi bắt đầu làm bài “Tổng kiểm thảo” tức là bản tự khai: tiểu sử, tiền tích, lý lịch đầy đủ từ họ nội, họ ngọai, bên vợ, bên chồng từ 3 đời; tức đời ông bà, cha mẹ, con cháu. Phân lọai từng thành phần xã hội, Phong kiến, địa chủ, tư bản, tư sản, tiểu tư sản, nông dân, công nhân, vô sản vv…Biết đến đâu khai đến đó, càng nhiều chi tiết càng đạt tiêu chuẩn. Khai bản thân rồi đến vợ con, anh em, họ hàng từng người từ nhỏ đến nay , từng năm, từng nơi cư trú, từng công việc làm, kể cả sự thay đổi với lý do và trình độ hiểu biết từng diện đến đâu? Cả nghề nghiệp kỷ thuật vv…Khai trình độ học lực từ mới sinh cho đến nay. Ai nuôi dưỡng bảo trợ, kể cả anh nuôi, chị nuôi, cha mẹ nuôi. Học trường nào? Lớp mấy? Tên thầy dạy từng môn học. Kê khai tỉ mỉ từng sự thay đổi chỗ ở, công việc làm với nguyên do cho đến khi vào quân đội và được huấn luyện tại trường sở nào? Tại đâu? Năm nào? Bao lâu? Học những gì? Ai huấn luyện giảng dạy? Ra trường phục vụ tại đâu? Cấp bậc, chức vụ? Công việc hằng ngày? Nhiệm vụ? Lương bổng? Huy chương? Ban khen? Thăng chức thăng cấp với lý do vv… Bài kiểm thảo nầy có người làm cả tháng với 40, 50 tờ giấy lớn, viết hai mặt. Ít người làm 1 lần mà trên Ban duyệt êm. Thời gian khai báo nầy chúng tôi được ưu đãi, được ăn bồi dưỡng thịt, cơm, thuốc hút, được rút tiền đăng ký mua nhiều thứ …Chứng tỏ CM quan trọng chú ý từng bản tổng kiểm thảo. Tôi đã từng thẩm vấn hỏi cung lấy lời khai nhưng chưa bao giờ khoa học tinh vi như CM đã lấy lời khai của chúng tôi được núp dưới danh nghĩa học tập chính trị và thu họach để tìm mức độ thành khẩn của từng học viên. Chúng tôi biết đây là khẩu cung tập thể mà khó có người che giấu được vì ai cũng làm việc cho đơn vị, cho cơ quan, làm chung với nhiều người, có cấp trên, cấp ngang và cấp dưới. Cùng với hồ sơ lý lịch còn lại để đối chiếu, để kiểm chứng. Biết vậy nên cũng chẳng ai dại gì mà che giấu! Vả lại che giấu để làm gì khi tất cả đều tiêu tan! Ngay cả Mỹ cũng bỏ lại không luyến tiếc gì cả, đã vắt chanh chúng tôi tới thời kỳ bỏ vỏ nầy!! Tâm trạng chúng tôi lúc đó rất chán ghét chế độ đồng minh của Mỹ đã “mang con bỏ chợ” nên không còn ai câu nệ gì mà không khai hết sự thật. Kết hợp 10 bài chính trị, từng bài đều đã làm bản “thu họach” nhận thức về Mỹ, về bản thân, về công việc làm cho đến bây giờ. Bản “Tổng Kiểm Thảo” là bản tổng kết, ai cũng tự giác khai, tự đánh giá, tự kết tội…Có anh đã khóc khi khai bản tổng kiểm thảo nầy. Vì hối hận chăng? Hay vì căm tức bị Mỹ bỏ rơi? Hay vì nguyên nhân nào khác?! Thời gian nầy cán bộ thỉnh thỏang lại đọc vài đọan của một vài người để “biểu dương” tinh thần tự giác ! Nên có anh đã tự giác quá lố như trong suốt thời gian làm Y sĩ, làm Tuyên Uùy cũng tự lên án, tự kết tội phản quốcvới lý do rất là Cách Mạng! Riêng tôi viết bản nầy gần 20 tờ đôi, ghi đủ các mục theo yêu cầu khai báo mà cũng bị trên Ban gọi lên “bồi dưỡng” rồi viết lại đến lần thứ 3 trên 20 tờ mới được duyệt “êm”, nhưng chỉ độ 1 tuần sau tôi lại được gọi lên khai bổ túc những chỗ chưa rõ ràng v.v…

• VỤ VƯỢT NGỤC ÐẦU TIÊN.
Thời gian cải tạo tính đến nay đã hơn 8 tháng, trại tôi đã xãy ra một vụ trốn trại do anh Quang (Tiểu Ðòan Trưởng Biệt Ðộng Quân) và anh Thịnh (CuÏc ANQÐ trước đó học ở Okinawa với tôi). Hai anh tổ chức trốn trại bị phát giác khi chui qua hàng rào kẽm gai vào lúc nửa đêm, súng nổ liên hồi, đèn rọi chiếu sáng, tôi thấy anh Quang bị bắn chết tại chỗ, còn anh Thịnh bị thương ở bụng và đầu được chữa lành sau 1 tháng. Sau vụ nầy sự đi lại trong trại bị hạn chế. Tối không được ra sân chơi như trước. Mỗi khi đi cầu, đi tiểu hễ bước ra khỏi phòng cách 3 thước là phải đứng lại hô lớn câu: “Báo cáo bộ đội (hay Giải phóng cũng được) cho tôi đi ngòai” Và khi về cùng phải báo cáo trước khi bước vào phòng ngủ. Mỗi lần đi chỉ được 1 người trong mỗi phòng. Khi hô to ‘báo cáo”xong là cứ đi không cần đợi đáp lại. Có khi không có bộ đội gác cũng phải báo cáo như thành 1 thông lệ. Có đêm chúng tôi còn thức nói chuyện trong phòng thì nghe có tiếng hô to khác thường (lớn hơn) “Báo cáo anh giải phóng cho tôi phóng giải”. Lập tức trên chòi canh có tiêng anh bộ đội hỏi: “Anh nào báo cáo ba que xỏ lá vậy?” Yêu cầu tới chỗ cột điện sáng cho rõ mặt, báo cáo tên họ, tổ đội và Khối nào? Chỗ cầu tiêu công cộng lúc đó cũng nhiều người mà không thấy ai lên tiếng theo lệnh anh bộ đội gác trên chòi. Tiếng lên đạn, quát tháo hăm dọa đòi bắn om sòm…cho đến sáng cũng chưa tìm ra “thủ phạm” nên trưa hôm đó chúng tôi bị phạt ngồi tập thể ngòai nắng để sinh họat tìm ra thủ phạm đã phỉ báng giải phóng. Ai cũng phải khai đêm qua đi ra ngòai lúc nào? Có ai chứng kiến? Hỏi hết người nọ đến người kia kéo dài hơn hai tiếng ngòai nắng mà cũng không có kết quả.
• ÐÚNG LÀ VĂN HÓA ÐỒI TRỤY
Một buổi tối có 1 anh bộ đội “trực ban”, phòng trực giữa sân làm bằng tôn, ván, có đèn điện sáng, có điện thọai. Anh nầy tới Láng tôi hút thuốc Lào chơi, nhìn thấy có anh xem truyện “Cô Gái Ðồ Long”, Anh bộ đội thấy có hình bìa truyện nên cầm lật coi rồi nói: “Loại văn hóa đồi trụy” mà các anh cũng mang vào đây! Anh bạn có sách cãi lại: ”Sách tryện giải trí có gì đâu mà đồi trụy cán bộ!” –“Giải trí gì đâu mà tên tục tĩu: “Cô gái đồ lông.” – “ Không phải đồ lông – mà là Cô Gái Ðồ Long, là tên bảo đao Ðồ Long. Anh bộ đội coi sượng sùng nên hỏi mượn xem đêm nay trực Ban. Anh bạn đưa ra mấy cuốn, anh bộ đội chỉ mượn cuốn đầu rồi về xem. Chừng khỏang 12 giờ hơn tới đánh thức anh bạn có truyện cho đổi cuốn kế tiếp, anh bạn đưa luôn hai, ba cuốn cho anh bộ đội mang về xem, đến sáng giờ vệ sinh cá nhân và doanh trại anh mới mang trả mấy cuốn với 1 câu: “Ðúng là văn hóa đồi trụy, làm mình suốt đêm không ngủ, coi mê dứt không được?!” Tụi tôi cười mà không dám cười công khai! Tiện đây tôi cũng kể thêm 1 truyện đăng trên “Báo tường”, mỗi Khối đều có “Báo tường”, cũng đủ mục: Văn hóa, văn nghệ… Có 1 bài đăng với đề mục: “Chính Sách Cải Tạo Ðã Có Từ Lâu” Tóm lược truyện kể từ đời La Mã cổ trước Tây lịch có ông Vua ra lệnh cho tất cả tử tội đều đưa ra pháp trường đấu với 1 con sư tử đói, nếu tử tội nào thắng con sư tử sẽ được tha trắng án và còn được thưởng quần áo, vàng bạc về nhà làm ăn. Có một lần tử tội và sư tử mở ra ở pháp trường, có cả Vua, quan và dân ngồi vòng trên cao khán đài như coi đá banh bây giờ. Khi Sư Tử trong lồng sắt được kéo cửa lên thì sư tử nhảy ra phóng đến người tử tội mà người tử tội không tránh né hay kháng cự gì cả ! Sư Tử gầm gừ sáp lại gần thì cả hội trường chỉ thấy người tử tội lại gần sư tử nói gì đó rồi sư tử ngoe ngoẩy ngoắt đuôi quay về chui vào lồng sắt. Từ Vua chí dân ai cũng kinh ngạc! Chưa từng thấy tử tội nào chỉ nói mấy câu như phù phép rồi sư tử quay vào chuồng ngoan ngoãn. Vua cho lệnh mời người tử tội tới bệ rồng hỏi: “Khanh có phép gì mà sai khiến được sư tử vậy?” “- Tậu Bệ Hạ tha thứ cho thần không thể tiết lộ được!” rồi Vua ban thưởng cho tử tội trọng hậu hơn trước! Cho cả cỗ xe và Xà-tích đưa về nhà. Dọc đường anh kể cho người Xà-tích nghe câu mà anh nói cho sư tử biết; “Nếu mầy ăn thịt tao lần nầy thì Vua sẽ cho mầy ở đây cải tạo hòai. Còn nếu mầy không ăn tao thì mầy được tha về “Có vậy mà chính tôi cũng không ngờ con sư tử nó lại tha mạng tôi”
Chuyện đăng nầy, tác giả bị làm tờ kiểm điểm và bị kỷ luật về tội “Châm biếm chính sách cải tạo” bị ảnh hưởng văn hóa đồi trụy. Cần được xây dựng chặt chẽ về tư tưởng !
• CHUYỂN TRẠI LẦN ÐẦU
Tuần sau, Láng nào cũng ghi câu khẩu hiệu: “ Nội vụ gọn gàng – Sẵn sàng cơ động”. Kế đó là lệnh chuyển trại tới “đột xuất” vào một buổi tối. Cũng đi như lần trước. Nghĩa là đi ban đêm trên những xe phủ bạt bít bùng. Mỗi xe cũng 30 người với 2 anh bộ đội hộ tống cho mỗi chiếc xe, cũng đi lòng vòng theo chiến thuật “nghi binh” cho đến 5 giờ sáng hôm sau thì tới trại Tam Hiệp ở Biên Hòa (Trại tù binh cũ). Tại đây mới đúng qui chế tù binh. Từng người nhập trại được khám xét tất cả hành lý mang theo. Mọi vật bằng kim khí đều bị tịch thu, kể cả lược nhôm, ống sáo nhôm, điếu cầy bằng nhôm. Chín tháng ở Hóc Môn là trại công binh cũ nên có rất nhiều ống nhôm, vỉ nhôm, trong chỗ nào cũng có nên anh em lấy chế biến làm lược, ống điếu, làm thước đo, làm quân cờ làm đàn gõ, làm đồ trang sức như: vòng xuyến, lắc tay, cà rá, giây chuyền, búp bê, hình tượng, tranh khắc bằng kim khí rất mỹ thuật, vì có nhiều anh em là họa sĩ, điêu khắc gia, kỹ sư, kiến trúc sư v.v…Thế mà những tác phẩm nghêï thuật đến trại nầy đều bị tước bỏ lại thành đống lớn nằm ở cổng trại. Ðến sáng hôm sau chúng tôi đứng trong hàng rào nhìn ra thấy những tác phẩm mỹ thuật được đàn bà, con nít tranh nhau lượm, cũng có 1 anh bộ đội la hét lấy lệ. Chắc các bà và trẻ con nầy là thân nhân của bộ đội, vì nếu là dân sự ai được vào tới đây là khu vực cấm của doanh trại “Quân đội nhân dân”. Ở trại nầy chúng tôi cũng được chia thành Tổ, Ðội, Khối. Ðặc biệt những người ở chung với nhau trước, nay được phân tán các nơi khác. Hình như họ cố ý không để ai ở chung với nhau lâu.?!
Trại nầy rộng, được chia ra từng Khu, ngăn cách nhau bằng hai lớp rào rộng chừng 8 thước. Mỗi Khu 1 cấp bực. Khu cấp Thiếu Tá và Ðại Úy ở riêng. Khu Trung Tá ở riêng, Khu Ðại Tá và các Tướng ở riêng. Mấy ngày sau tôi cũng thấy được anh Sảo (Ðại Tá). Gặp nhau mà không tự do nói chuyện vì ngăn cách 2 lớp rào 8 thước.
Vừa nói chuyện vừa cúi xuống nhổ cỏ sát rào như đang làm vệ sinh Trại, vì nếu bộ đội trên chòi canh cao thấy sẽ bị kỷ luật vì vi phạm nội qui, do đó tôi với anh Sảo chỉ hỏi thăm nhau mấy câu rồi đi liền vì sợ có người tọc mạch. Anh em cách xa nhau gần 10 tháng mà nay tôi thấy anh Sảo gầy ốm và đen, không còn bụng phệ nữa, chắc mình cũng vậy! Vì hôm qua đi cân gạo ở kho, có cân thử thấy còn 64 ký. Trước khi đi học tập cải tạo tôi cân được 72 ký, mất 8 ký trong vòng 10 tháng! Trong 3 tháng ở trại nầy chúng tôi vẫn nhận được thư nhà và bưu kiện quà của gia đình, trung bình mỗi tháng 1 lần. Có những bức thư của bạn bè đưa cho nhau xem, cũng là một đề tài đàm luận về những tin tức qua thư cho biết, những tin tức tình hình thế giới, tình hình Miền Nam bằng báo chí gói trong quà bưu kiện. Tuy những thư đến chúng tôi đều được kiểm duyệt công khai. Bì thư hay gói quà đều bị cắt mở, thậm chí có thư gia đình “động viên tinh thần” đều được cán bộ đọc công khai, bình luận ở hội trường để anh em bắt chước động viên lại gia đình cho “tốt”. Không được than khổ sở, đói khát, ốm đau hay tiết lộ địa điểm cải tạo. Những thư nào phạm qui định sẽ không được gửi đi. Nên thư chúng tôi viết rất khéo và ngược lại gia đình cũng vậy.

Có thư tôi muốn cho gia đình biết về sự đói, bịnh, nên phải viết “mánh” không biết gia đình có hiểu không? Như câu “bây giờ anh mập khỏe như ba nên ăn uống đến nỗi vừa ăn xong ma cứø tưởng như chưa ăn”!

Ba tôi thì ốm như cây tre miễu, chắc vợ tôi cũng biết mập khỏe như ba là ra sao rồi! Có câu vừa ăn cơm xong mà tưởng như chưa ăn, nghĩa là ăn đói quá!! Có thư của anh bạn cho xem, thư gửi kèm trong quà gửi có câu:” Mắm ruốc kỳ nầy gửi cho anh rất ngon vì có nhân thịt, mà em lựa thứ thịt gía 20$” nghiên cứu thư và biết trong keo mắm ruốc có gửi tiền là 20$, quả nhiên sớt ra tận đáy có bọc nylon ép như căn cước bọc nhựa, bọc giấy 20$ (tiền mới đổi) Một anh bạn khác cho tôi xem thư viết như sau: “Gần tết má làm mứt gửi cho ba vì biết ba rất thích mứt nầy nhưng không biết ba có nhận được không nên má không gửi nhiều sợ để lâu bị kiến tò làm hư …” Suy ra 2 chữ “kiến tò” là có tiền… và anh bạn tôi đào được 50$ bọc nhựa trong keo mứt…

Ngòai ra những tin tức đi Mỹ, đi Pháp kể cả hỏi ý kiến gia đình có nên đi vùng kinh tế mới không? Cùng là những tin tức thân nhân ở ngọai quốc đều được viết với ý sâu sắc, phải suy nghĩ mới hiểu được ẩn ý trong thư, qua bao trạm kiểm duyệt mà đều vô sự . Tôi rất phục mưu trí các bà, có nhiều khi hơn phái nam chúng tôi!

Trước ngày chuyển trại độ 1 tháng, chúng tôi được thông báo ngày hôm sau có phiên tòa quân sự xử 2 người trốn trại, mỗi Khu chỉ được cử 1 Trưởng Khu tham dự.

Tòa xử có loa phóng thanh và Khu tôi ở cách chỗ xử án 1 con đường cái có 4 lớp rào kẻm gai. Nơi tòa án là ngôi nhà thờ cũ của trại nầy bỏ hoang từ sau ngày giải phóng. Hai người trốn trại được đem ra xử là anh Thịnh ở trại Hóc Môn bị bắn trúng thương 2 tháng trước và anh Bé Thiếu Tá trưởng phòng ll Ðịnh Tường vừa vượt rào trốn cách đây hơn 1 tuần ở trại Tam Hiệp, anh đã trốn ra đường lộ đón xe lambretta đến gần trạm kiểm sóat Thủ Ðức, xuống lội đồng rồi anh cũng bị du kích bắt nộp công an trả anh lại trại giam.

Hôm xử chúng tôi bu xung quanh hàng rào gần loa phóng thanh để nghe xử. Vì loa phát tiếng nhỏ chỉ đủ nghe khỏang 20 -30m mà thôi. Ðến giờ xử thì thấy anh Thịnh và anh Bé được tóan bảo vệ còng tay dẫn từ conex (nhà sắt hộp), mỗi anh một nơi. Dẫn bộ đi ngang chúng tôi các anh cười rất thản nhiên. Trông anh nào cũng xanh xao gầy ốm. Các anh có vẻ chủ quan nên mới bình thản như vậy. Không dè đây lần cuối cùng chúng tôi thấy các anh. Các anh còn rất trẻ, chưa anh nào được 40 tuổi mà đã mang cấp Thiếu Tá. Riêng anh Thịnh thì có nhiều kỷ niệm chung với tôi tại Nhật năm 1971. Ở Hóc Môn chúng tôi đã nhắc lại kỷ niệm và tâm sự cùng nhau. Tuy trong tù đói khổ mà anh vẫn tập thể dục thẩm mỹ nên ngực, bắp tay anh nở rất đẹp. Chúng tôi thường gọi anh bằng “con kiến càng” ! Phiên tòa bắt đầu xử các anh bằng bản “Tổng kiểm thảo” của các anh đã viết hồi ở trại Hóc Môn đã được “Ban” đánh giá viết hay, lý luận sắc bén, có tinh thần tự giác cao, tự kết tội mình được “đạt tiêu chuẩn”. Không dè ngày hôm nay được ông biện lý CM đem ra đọc buộc tội các anh thì không còn lý lẽ nào biện minh gỡ tội các anh được. Khi đọc xong Tòa còn hỏi các anh có điều gì không đúng cần biện minh không? Thì các anh cứng họng không trả lời được, vì chính các anh tự nhận tội với tính cách tự giác cao!! Tuy nhiên anh Thịnh có trình bày thêm trong thời gian 9 tháng ở trại Hóc Môn, anh đã được Tổ, Ðội bình bầu anh xuất sắc tới 4 lần, đó là nói lên tinh thần dốc tâm học tập của anh. Nhưng mỗi ngày anh càng thấy ngày về anh càng mơ hồ, xa vời, anh đã hỏi cán bộ CM nhiều lần đều được trả lời là chưa được “tiến bộ” nên chưa được về!? Một phần vì gia đình anh chỉ có anh là cột trụ mà vợ anh đang mang thai, gần ngày sanh, khi đi cải tạo anh cũng tưởng chỉ một vài tháng rồi về lo cho vợ con (Anh chỉ còn 1 mẹ già và 1 con) mà nay trên 10 tháng mẹ và vợ con anh lấy gì sống? Nên anh nhớ nhà và nóng lòng về thăm gia đình để từ biệt cho gia đình được yên tâm. Anh nói: “Nếu CM cho phép tôi về thăm gia đình một lúc cũng được, thì tôi đâu có trốn trại thế nầy! Tóm lại động cơ thúc đẩy tôi trốn trại là phần lớn do CM không tôn trọng thông báo học tập cải tạo 1 tháng, thời gian cải tạo không xác định nên tôi mất tin tưởng vào chính sách khoan hồng của CM.” Kế đó là phần buộc tội của tòa án quân sự CM căn cứ trong bài “Tổng kiểm thảo” của các anh đã nhận tội “phản quốc” mà CM đã khoan hồng nhân đạo, mở cho các anh một sinh lộ là học tập cải tạo theo như chánh sách 12 điểm của Chánh Phủ CM Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN đã phổ biến, nếu ai không chịu học tập cải tạo thì sẽ không hưởng chế độ khoan hồng và còn bị xử lý nghiêm trị.

Nay các anh trốn trại là còn nuôi dưỡng ý đồ theo đế quốc Mỹ làm tay sai để phản bội Tổ Quốc. Tòa buộc tội anh Bé cũng tương tự như anh Thịnh. Sau khi Tòa hỏi lần chót “Các anh còn điều gì nói thêm không? Kế đó Tòa thay mặt nhân dân, tuân hành chánh sách của Chính Phủ CM LT CHMN Việt Nam tuyên án xử “Tử Hình”. Tuyên án xong thì có tóan bảo vệ xông vào bịt mắt, bịt miệng (tay vẫn bị còng). Các anh bị dẫn độ ra phía sau trại cách chừng 200 thước, nơi đây đã cắm sẵn 2 cọc, phía sau là ụ đất, bên cạnh đã đào sẵn 2 hố và 2 cái hòm đỏ (quan tài) mở nắp có mạt cưa, 5 phút sau là 2 lọat AK nổ để tiển đưa 2 linh hồn!!.. Luật pháp CM rất là sâu sắc đã “tiên liệu trước” tội nhân phải chết nên đã dự bị trước hòm chôn, đào hố sẵn rất là chu đáo cho tội phạm (!)

Dự thính phiên tòa xử các anh theo “luật CM” chúng tôi càng chua xót cho số phân chúng tôi! Ðến giờ ăn mà chúng tôi như không thấy đói! Ai cũng buồn bã, nặng nề, im lặng, chỉ còn những tiếng thở dài giữa buổi trưa Hè ảm đạm! Hai lọat AK như cảnh cáo chúng tôi “đừng có trốn trại nữa” … Cái chết của các anh không làm chúng tôi sợ! Nếu biết tù khổ sai chung thân không có ngày về thì chúng tôi sẽ tự tìm cái chết, chắc chắn cũng không đơn giản đâu! Chúng tôi đang đốt hương lòng tiễn đưa các anh đây!!!

• HÀNH TRÌNH CẢI TẠO MIỀN BẮC

Thời gian 3 tháng ở trại Tam Hiệp Biên Hòa, tiêu chuẩn ăn rút xuống chỉ còn 12 cân gạo 1 tháng cho mỗi khẩu phần. Lao động trại nầy có tính cách tạm thời để chờ đợi một cái gì mà chúng tôi chưa biết? Học tập chính trị thêm 2 bài nữa là bài 11 và 12.

Bài 11: Chính sách 12 điểm của Chính phủ CM LTCHMN VN !

Chính sách 12 điểm như 1 đạo luật dành riêng cho Ngụy Quân, Ngụy Quyền. Họ phân lọai cải tạo từng dạng. Tôi thuộc dạng ở điểm 9 trong 12 điểm. Muốn được khoan hồng phải cải tạo với cái mốc 3 năm; nhưng phải đạt tiêu chuẩn “tiến bộ” mới được xét tha về, còn không “tiến bộ” sẽ bị xử lý theo luật pháp. Mà tiến bộ như thế nào? Tiến bộ ra sao? Thì chỉ có cán bộ xác định?!!!

Bài 12: Mỗi xã hội phát triển phải đấu tranh xóa bỏ giai cấp bóc lột.

Ðấu tranh xóa bỏ mọi giai cấp bóc lột và chỉ còn giai cấp công nông vô sản mà thôi. Như vậy xã hội nầy sẽ không còn giai cấp trí thức, mà không có trí thức thì con cháu mình cần gì học cao? Vì giai cấp công nông thì không học cũng làm được?! Theo qui luật hễ bỏ giai cấp nọ sẽ nẩy sinh giai cấp kia, mà giai cấp kia là giai cấp nào? Có còn bóc lột như giai cấp trước không ?

Ðó là những thắc mắc trong bài 12. Phải chờ thời gian giai cấp mới làm việc mới trả lời thực tế được...

Ngày 11 tháng 6 – 1976 Chúng tôi được lệnh chuyển trại từ 6 giờ chiều. Tấtcả mọi người có tên trong danh sách thì phải mang hành lý cá nhân ra sân kiểm tra. Lần nầy mỗi người chỉ được mang 20 kí lô. Tất cả đồ đạc điều bị “thanh trừng”. Chúng tôi kinh nghịêm mỗi lần kiểm tra tư trang là mỗi lần hành lý được gọn, nhẹ và lần nầy cán bộ kiểm tra có vẻ khó khăn hơn, đồ dùng chỉ dùng 1 cái, nếu có 2 cái là phải bỏ lại 1. Thậm chí có 2 cái muỗng cũng bỏ lại 1.
Sau khi kiểm tra xong có anh chỉ còn lại 10 kg hành lý. Do đó chúng tôi suy luận, chắc chúng ta đi máy bay nên mới “căng” như vậy. Và đã có vị tiên tri đóan đi Liên Xô, anh thì đóan đi Hà Nội nhốt vào Hỏa Lò như tù binh Mỹ trước đây. Tâm trạng chúng tôi lúc đó ai cũng mong đi chỗ khác coi có khá hơn đây không? Vì ở đây tuy không cực khổ nhưng ăn đói! Có anh đói không chịu nổi đã phải làm những việc không còn nhân cách để kiếm ăn thêm! Miền Nam là vựa lúa của nước VN. Có anh gốc người Miền Nam đã thốt câu: “Mấy chục năm tuổi đời chưa thấy ai đói. Bản thân chưa bao giờ nghĩ đến cái ăn là qúy như bây giờ, nay nhờ ơn CM mới biết chữ “Ngọc thực” là như thế nào?” Sau nầy chúng tôi càng chuyển chỗ mới càng đói hơn; thế mà ai cũng mong thay đổi chỗ ở để hy vọng được no hơn!!

Lúc 9 giờ tối ngày/11/6/1976 Chúng tôi, 1/3 trại được lên xe bít bùng, trong số nầy có cả tôi. Thủ tục chuyển trại cũng giống những lần trước, nghĩa là cũng 30 người 1 xe và đi loanh quanh vào ban đêm. Ðến khỏang 2 giờ sáng thì xuống xe với dàn súng chờ đón của CA và bộ đội lùa chúng tôi xuống tàu tại Hải Cảng Sài Gòn. Chúng tôi xuống hầm tàu chở hàng và chở súc vậtvì còn mùi hôi. Cứ 150 người 1 khoang tàu. Tàu tôi đi chứa được khỏang 500 người và không biết bao nhiêu chiếc tàu đậu kế tiếp nhau. Xuống hầm tàu nằm xếp như cá hộp và chỉ chừa 1 chỗ để thùng cầu tiêu. Chỗ nầy ai cũng tránh xa và nếu ai muốn chỗ rộng cũng chỉ còn chỗ đó. Một giờ sau đòan tàu nhổ neo khởi hành. Chúng tôi chỉ được nhìn khỏang trời đầy sao qua ô vuông bằng chiếc chiếu lớn. Hiện chúng tôi cũng chưa biết đi đâu ? Mỗi lần đi đều có nhiều “thầy” bàn. Thầy nào cũng có lý lẽ, mới nghe thấy có lý nhưng ngẫm nghĩ cũng không ra gì! Có anh nói nhiều, sai nhiều, nói ít sai ít, càng nói càng sai, mà cũng ưa nói, ưa bàn. Sống trong tập thể trí thức nầy tôi thấy tài nói là nhiều hơn nhân tài. Có khi 1 đề tài mà hôm nay anh nói vuông, rồi hôm sau anh nói tròn. Có hỏi anh tại sao khác vậy? Cốt ý hỏi để mong anh đừng phát ngôn vô trách nhiệm, nhưng anh vẫn thản nhiên lập luận nghe đều có lý cả! Trong cuộc thảo luận “bỏ túi” nầy chỉ có anh K. Trung Tá Hải Quân đã phát biểu theo thực tế kinh nghiệm môn đi biển của anh. Anh đã từng làm Hạm Trưởng HQ –VNCH cho biết thì tàu nầy không đi Côn Ðảo mà đi Miền Bắc và cũng không đi nước ngòai. Vì lọai tàu nầy chở Lừa, Ngựa chở súc vật đâu có đi ngọai quốc được. Trên tàu chỉ treo quốc kỳ “nền đỏ sao vàng” không có bảng hiệu hay hiệu kỳ. Các thủy thủ đoàn mặc thường phục như tàu đi biển của tư nhân.

Tàu chở hàng nầy nếu có tàu nào đi ngang cũng không biết tàu nầy đang chở 500 sĩ quan tù binh từ cấp Ðại Úy đến Trung Tá. Chúng tôi bắt đầu “phục” quân đội CM sự ngăn cách và bảo mật cho một đòan tàu chở cả 100 ngàn sĩ quan ra Bắc mà dư luận trong dân chúng cũng không ai biết, ngọai trừ người có phận sự thi hành và họ cũng chỉ biết từng phần mà thôi. Kỷ luật “phòng gian bảo mật” tự nhiên hơn Mỹ. Tàu đi 3 đêm 2 ngày thì tới Bến Thủy thuộc Huyện Gio Linh. Tới đây chúng tôi được dẫn lên bờ, phải đi bộ gần 2 cây số thì tới nơi đòan xe lửa đã đậu sẳn. Chúng tôi được lùa lên những toa tàu chở lừa , ngưa , trâu, bò vì còn hôi mùi phân. Toa tàu không băng ghế , không có gì hết. Mỗi toa tàu chứa độ 100 người đứng chật ních, chỉ có ngồi “úp thìa” vào nhau... Trong toa đóng cửa bít bùng, không có cửa sổ chỉ có lỗ thông hơi nhỏ có hàng song sắt phía trên sát nóc toa tàu. Khi đòan chúng tôi đã được lùa lên toa không còn chỗ chứa nữa thì cửa toa mới đóng kín, ngòai có khóa. Xe lửa còn dồn toa tới khỏang 10 giờ đêm mới chạy. Khi chạy mới bớt nóng, vì hơi người không đủ chỗ cho không khí lọt vào. Mọi người đều ngột ngạt khó chịu. Nhiều người phải ghé mũi vào các kẽ hở của sàn hoặc toa để hít thở. Trên tàu, chúng tôi được phát 1 thùng nước uống. Mỗi người được phát 1 nắm cơm bằng nắm tay và 1 ổ bánh mì nhỏ khô cứng như gỗ cùng ít ruốc cá mặn như muối hạt. Ðây là thực phẩm cho 1 ngày rưỡi. Ban đêm không khí mát nên chúng tôi thấy khỏe. Ban ngày trời nắng khỏang 9, 10 giờ trở đi, trong toa tất cả đều ở trần mà mồ hôi như tắm! Thùng nước uống đã hết, phải chia nhau từng nấp bi-đon nước uống “cầm hơi”. Khi tới nhà ga Nam Ðịnh ngừng lại tiếp tế nước thì đã có 2 anh trong toa tôi ngất xĩu. Khi y tá bộ đội cấp cứu thì 1 người chết, 1 người phải chuyển sang toa khác không biết sau nầy ra sao? Khi tới ga Thường Tín thì đòan tàu ngừng lại. Một số tù cấp Trung Tá được sang xe Molotova bít bùng. Khi xuống xe lửa một số học sinh và người lớn chỉ chúng tôi chửi bới và ném đá tới tấp vào anh em tù. Có người lỗ đầu chảy máu, khiến bộ đội và CA ra can thiệp mới giải tán đám đông nầy. Một anh bộ đội nói: “Nhân dân ngòai nầy còn căm thù các anh lắm!” Chúng tôi thấy dân Miền Bắc giỏi thật! Họ biết chúng tôi tới giờ nào? Ở đâu? Ðể cầm sẵn đá ném (!) Kế đó đòan xe lửa tiếp tục di chuyển. Trước khi chúng tôi bớt mỗi toa hơn 10 người nên thấy dễ chịu đôi chút. Ðòan tàu qua ga Văn Ðiển rồi ga Giáp Bát vào Hà Nội, qua cửa Ðông và thành Citadelle rồi từ từ qua đường có chắn xe qua cửa Nam, qua sân ga Hàng Cỏ rồi Cống Vọng, Bạch Mai... Tôi được may mắn anh em nhường chỗ có kẽ hở để quan sát nơi quê hương “chôn nhau cắt rốn” của tôi. Nơi tôi còn biết bao kỷ niệm nơi thời thơ ấu và chính phố Khâm Thiên bây giờ còn các cậu mợ, dì và em ruột tôi.

Cách xa Hà Nội đã 22 năm mà quang cảnh không đổi khác mấy. Chỉ thấy thêm cảnh đổ nát, tiêu điều của quê hương nghèo nàn vì chiến tranh, nhất là khu phố Cửa Nam tôi đã thấy một phần sinh họat của dân chúng (1976) đúng giờ trưa tan sở làm cũng đông người chen chúc nhau đa số là xe đạp. Nhìn khắp Khu Cửa Nam mới thấy lèo tèo 2 chiếc xe ô-tô con, hình như của Nhà Nước. Ða số dân chúng mặc quần áo nâu sậm, nâu xanh là chính, tòan những khuôn mặt mệt nhọc bơ phờ vì vừa lao động về trong buổi trưa Hè Hà Nội.

Nhất là vết thương tàn phá do bom đạn còn ghi dấu lại. Sau ga Hàng Cỏ dài tới gần chợ Khâm Thiên, một số nhà đổ nát còn nguyên mà hòa bình đã được 1 năm rồi. Vết thương chiến tranh VN bao giờ mới được hàn gắn? Tôi bắt đầu thấy ghê tởm chiến tranh và tham vọng của những thế lực siêu cường đã gây lên bao cảnh tang tóc, biết bao đau thương cho nhân lọai! Ðòan tàu chầm chậm qua ngã tư Khâm Thiên, tôi đã thấy một phần Hồ Halais, trọn vẹn Hồ Bảy Mẫu, nơi nầy có chỗ được san bằng thành vườn, thành công viên, khiến tôi hồi tưởng lại 25 năm trước, khi tôi còn tuổi thanh niên với chiếc xe đạp đi chơi vùng nầy như còn thuộc lòng từng gốc cây, từng bờ hồ ngày xưa tôi đã bơi lội, câu cá, đã từng hàng giờ ngồi mơ mộng của lứa tuổi thanh niên yêu đời. Khi đó tôi còn thuộc bảo trợ của mẹ tôi mà nay mẹ tôi đã mất và tôi cũng mất tất cả!!! Mà bài thơ của bà Huyện Thanh Quan tôi sửa lại thành “Cảnh cũ người nay luống đọan trường” Rồi đoàn tàu cứ tiếp tục qua ga Việt Trì, Phú Thọ rồi tới Yên Báy thì ngừng lại. Chúng tôi được chuyển sang xe ô-tô bít bùng tới điểm chót xuống xe là Huyẹân Phú Yên thuộc Tỉnh Sơn La, tới đây ngày 15/6/1976 . Tại đây đã thấy cắm cọc thành từng ô, có người đọc danh sách, từng Ðội, từng Khối, từng Khu đứng vào chỗ cắm cọc là đã có sẳn những cán bộ (bộ đội) mang súng dẫn chúng tôi đi chừng gần 2 cây số thì tới trại bằng cây, bằng gạch xây lâu năm của nhà tù Pháp còn lại. Tôi thuộc khu 6, đội 4, Khối 1 được ở trong nhà giam cũ. Cứ 50 người 1 buồng nằm trên bệ, trên lối đi bằng ciment đã lỗ chỗ bể. Hôm đó chúng tôi được một bữa ăn bồi dưỡng, tuy chỉ có cơm trộn bắp xay với ít cà kho với thịt mỡ và canh cà bát mà chúng tôi thấy ngon và no …vì mấy tháng nay chưa được no bữa nào! Hôm sau tập họp với đầy đủ hành trang, có bộ đội quản lý trại giam đọc nội qui trại gồm 38 điều cấm, như cấm: “Quan hệ” láng nọ với láng kia, cấm ra khỏi vòng rào mà không xin phép cán bộ. Cấm nấu nướng “cải họat”. Cấm quan hệ với dân. Cấm mua bán, đổi chác. Cấm cất giấu đồ kim khí, chất nổ, chất đốt, thuốc uống, thực phẩm tươi và sống, tiền và đồ tư trang như đồng hồ, nhẫn, giây chuyền, kính, bút máy, bật lửa, quẹt cây và quần áo ngòai thứ trại cấp hoặc cho phép. Ngọai trừ 2 bộ quần áo, mùng mền còn bao nhiêu phải khai, nộp kho. Nếu ai cất giấu bắt được sẽ bị thi hành kỷ luật. Kỷ luật là chỉ đựợc mặc 1 quần lót nhốt vào trại giam kín, có khoen chân (cùm) không mùng, mền, chiếu dù trời rét, ăn chỉ được 1 củ khoai hoặc 1 chén bắp bung cho mỗi bữa, một chén nước để uống. Sau khi kiểm tra hành lý lại được nhẹ bớt những thực phẩm gia đình gửi bằng bưu phẩm ở Miền Nam, nay bị tập trung vào kho, kể cả thực phẩm khô đã được trại giam miền Nam cho dùng, nay cũng bị gửi kho. Có anh xin ăn tại chỗ cũng không được, đặc biệt thuốc uống tôi mang từ nhà đi và cả do bưu phẩm gia đình gửi cho đựng đầy 1 hộp thiếc bánh biscuit, đủ mọi lọai thuốc thông dụng, nhất là thuốc trụ sinh đều bị gửi vào Bệnh Xá quản lý “Ðể khi các anh bịnh sẽ cấp lại cho các anh”, rồi sau số thuốc nầy không ai được dùng, thậm chí có anh bị bịnh cao máu thường xuyên, xin giữ thuốc lại dùng cũng không được. Ít tuần sau chính anh nầy bị lên máu , ngất xĩu, anh em chạy xin thuốc của anh gửi để chữa trị cho anh thì thuốc không còn, khiến anh phải chết vì không có thuốc!!

Bộ đội quản thúc chúng tôi thuộc đơn vị chuyên môn coi tù, trước đã quản thúc tù binh Mỹ nên đã có kinh nghịêm rất là khe khắt. Sau 2 ngày kiểm tra tư trang, sấp xếp tổ, đội và học nội qui; nội qui gọi chúng tôi là tù binh – trứơc kia chúng tôi dùnh từ tù binh hay tù nhân đều bị các cán bộ chỉnh ngay tại chỗ “ Các anh là học viên cải tạo vì Nhà Nước CM không có tù, trước thì có tù binh Mỹ nay thì không còn nên không có danh từ tù nữa”!? Nghĩ lại cả thế giới lòai người không ai ngu như chúng tôi! Chen lấn giành nhau đóng tiền tình nguyện đi ở tù!? Ở trại K1 chúng tôi được phân công, nếu ai biết nghề mộc, rèn, chăn nuôi thì được vào tóan mộc, rèn và chăn nuôi heo, làm bếp nấu ăn cho tù. Những ai hay bệnh tật già yếu thì được ở lại trại đan rổ rá, phên cót và sạch sẽ cầu tiêu láng trại. Còn bao nhiêu thành lao động chính, mỗi người được phát một con dao để thành tóan đi rừng chặt cây Vầu (tầm vông), tóan chặt giang, tóan chặt nứa, tóan chặt cột về làm nhà trại, tùy theo nhu cầu trại cho mỗi ngày. Mỗi tóan có 1 tù binh cũ hướng dẫn. Tù binh nầy từ cấp Chuẩn Úy đến Ðại Úy bị bắt ở các mặt trận Miền Nam từ những năm trước. Có người bị bắt từ tết Mậu Thân (1968). Có người bị bắt ở mặt trận Khe Sanh, Lao Bảo, Dakto, chiến trận Lam Sơn 719 .v.v... Có anh bị bắt trên 10 năm! Gặp chúng tôi các anh mừng lắm, hỏi đủ chuyện Miền Nam, kể cả chuyện CM giải phóng Sài Gòn ngày 30 tháng 4 – 1975. Ngày đó ở đây có anh bộ đội báo tin “Sài Gòn và Miền Nam đã được giải phóng” các anh không tin vì nghĩ rằng năm Mậu Thân CM đánh chiếm thọc sâu các Tỉnh Miền nam rồi sau cũng bị đẩy lui tan rã, bộ đội nói thế nào các anh cũng không tin! (Ðến chúng tôi cũng không tin Miền nam mất nưã là các anh..). Sau đó bộ đội cho các anh là ngoan cố (!) Cho các anh nghe thâu băng những buổi truyền thanh của đài Sài Gòn sau ngày giải phóng các anh vẫn không tin, cho là tiểu xảo thu băng. Sau cho xem film “Giải Phóng Sài Gòn”, lúc đó các anh mới tin, đã có anh khóc khi xem film. Khi gặp chúng tôi các anh trách sao để mất Miền Nam dễ thế?! Bộ hết súng đạn, lương thực hay sao mà chạy thua sớmvậy? !!Làm như chúng tôi là cấp lãnh đạo tối cao!!

Thế rồi chúng tôi thật sự là “tù khổ sai” mà từ mới gọi là “học tập cải tạo” . Trước khi đi lao động chúng tôi được tập họp nghe anh cán bộ chính cống Miền Bắc ban huấn từ: “Các anh được đảng và nhà “lước” khoan hồng cho học tập cải tạo “nao” động và đã qua giai đọan học chính trị cơ bản, “Lay” bước vào nao động cải tạo cụ thể, các anh phải “nàm” cho có chất “nượng”. Nàm cho có kỹ thuật, nàm cho ngày công có ích vv” Cả giờ đồng hồ hơn 1000 dân trí thức nghe thằng ngọng ban huấn từ, đúng là “Người khôn đi học kẻ ngu dạy đời..” trong sấm của Tứ Thánh có lẽ đúng vào thời kỳ nầy!!! Kế đó chúng tôi được phân chia từng toán 10 người, có 1 tù binh cũ hướng dẫn, các tóan nầy tập trung đến chân núi thuộc Huyện Mường La, có một hai anh bộ đội theo sau, còn bao nhiêu ở dưới chân núi đợi chiều đón chúng tôi về. Trước tiên là chúng tôi lên núi kiếm cây giang non mọc hai bên lối đi để làm dây cột thành từng bó mà vác. Cách cột, cách chặt cây cho ngã theo hướng muốn, lựa cây theo hướng có Vầu già đều được anh bộ đội chỉ dẫn. Chỉ tiêu mỗi người 20 cây Vầu dài 4m,5 trở lên. Cây Vầu già ở đây có vân mốc trắng và thẳng to bằng cườm tay trở lên. Khu rừng nầy đã có nhiều người chặt cây nên cây tốt không còn, chúng tôi đi qua đỉnh núi khác gần 3 giờ đồng hồ mới có cây Vầu già theo chỉ tiêu. Có anh phải đi mấy núi mất 7, 8 cây số mới chặt đủ chỉ tiêu. Có núi cao cả 1000m. Có chỗ dốc đứng tới 80 độ phải cột giây leo lên. Ði người không cũng vất vã mà lại còn đi xuống với bó Vầu 20 cây với đường đá rêu trơn trợt, hễ trợt chân là có thương tật, có chết, vì suối và khe sâu thăm thẳm. Cây cổ thụ với giây leo chằng chịt, nhiều chỗ phải phát đường đi lên, nếu đi đường có dấu người đi rồi thì không còn Vầu tốt theo chỉ tiêu! Chặt xong bó dầu đúng chỉ tiêu, lại phải kiếm chỗ đưa bó vầu xuống mà khỏi bị vướng cây, mà không bị lạc lối. May là tóan tôi có anh tù cũ quen công việc, tuổi còn trẻ nên có sức mạnh hơn chúng tôi, dối với họ chỉ tiêu bó Vầu 20 cây là quá khỏe, là chỉ tiêu nhẹ nhất cho các anh mới lao động và lớn tuổi. Anh tù cũ nói: “Còn trẻ như tụi em buổi đầu lao động chỉ tiêu là 25 cây!” Tóan tôi khởi hành lúc 6 giờ sáng, mỗi người kiếm được một bó Vầu đúng chỉ tiêu về tới trại là 2 giờ chiều. Có anh tới 6 giờ chiều cũng chưa về. Trại phải cử tóan tù cũ, có cả bộ đội đốt đưốc đi kiếm. Khỏang 4, 5 giờ chiều ở trong rừng là khuất bóng mặt trời, tối không thấy đường đi, dễ bị lạc, nếu thấy ánh lửa là tìm được đường về. Lần đầu tiên lao động nặng mà đủ chỉ tiêu là khá! Khi về đến trại mỗi người 1 bó vầu trình diện Quản Giáo (mỗi Ðội 1 cán bộ quản giáo) kiểm tra chỉ tiêu lao động, có một vài anh chặt Vầu non, hoặc ngắn, hoặc cong đều bị đưa ra trước Ðội phê bình để rút kinh nghiệm lần sau.

Trại 1 Sơn La, nguyên trước kia là nhà tù của Pháp được xậy cất kiên cố bằng tường dầy, sàn nằm bằng ciment, trải qua không biết bao nhiêu thời gian , nay để giam chúng tôi . Ðược biết, trước đó khỏang 1 tháng có giam tù binh Mỹ vì những chữ Anh viết bằng vật nhọn lên tường, lên ciment, ngay cả tường trong cầu tiêu cũng có chữ, tên người, tên các tiểu bang Mỹ cùng ngày tháng bị bắt giam. Năm tù binh Mỹ bị bắt ghi từ năm 1965 đến năm 1972. Có chỗ ghi ngày chuyển trại cách trước chúng tôi đến, khỏang chừng 1 tháng! Ít ngày sau chúng tôi đi rừng lao động có gặp dân Mường cùng các tù nhân hình sự kể chuyện “ trước cũng có tù binh Mỹ giam ở đây, trại lựa ít người có màu da đen mai mái, nhất là những người Mỹ da vàng cũng cho đi rừng lao động. Họ cũng bắt rắn, bắt chuột nướng ăn, đổi khăn tắm, quần áo lấy thực phẩm, thuốc hút vv…” Kể cả chuyện những người Mỹ cao quá khổ, bị bịnh chết lựa chiếc quan tài dài nhất cũng ló bàn chân ra ngòai, bẻ gập đầu co đầu gối cũng ló chân, không đóng đinh nắp quan tài được. Cuối cùng phải lấy dao rựa chặt nhượng chân cho đứt gân mới bẻ gập chân mà đóng đinh nắp hòm mới được. Nghe kể quá dã man với người đã chết, tôi hỏi:
- Khi chặt chân xác chết Mỹ là sáng kiến của anh phải không?
Người tù hình sự trả lời:
- Chính cán bộ chỉ dẫn chúng tôi mới dám làm chứ. Có tháng trời lạnh tù binh Mỹ chết không còn quan tài phải bó chiếu đem lên núi chôn, chôn xác hôm trước thì hôm sau thú rừng moi xác chết lên ăn, thịt xương, bầy nhầy hôi thúi nồng nặc! Dân chúng phản ảnh lên, Trại bắt tụi tui (tù hình sự) đi lượm xương, lượm thịt đem đào sâu trong khe núi chôn lại, chôn rồi lấp đá kín mới yên.
Chúng tôi đến trại nầy thì thấy còn 1 tù binh Mỹ đen vàng, nhỏ con tên là Việt Nam làm thợ máy sửa xe jeep lùn A1 cho trại. Nghe nói người Mỹ nầy biết tiếng Việt Nam.

Trại K1 Sơn La, tiêu chuẩn ăn của chúng tôi là 15 cân với độn 40% bắp xay hoặc khoai mì có khi độn mì hạt. Tương đối trại nầy ăn hơn trại cũ 3 cân 1 tháng. Nhưng phải lao động nặng gấp 10 lần nên tiêu thụ nhiệt lượng (Calori) cũng gấp 10 lần nên cơn đói cũng vẫn hành hạ. Ðôi khi đang làm việc cơn đói cào xé, chân tay bủn rũn mắt hoa, chóng mặt …Phải ngồi hít thở theo phương pháp “ngồi thiền” sức lực hồi phục nhanh lại. Rút kinh nghiệm từ thực tế nầy, chúng tôi nhận thấy; nuôi thân thể con người không hẳn hòan tòan bằng thực phẩm, có thể nuôi cơ thể bằng phương pháp hít thở “thiền định”. Ngay cả chữa bịnh bằng phương pháp nầy cũng được bình phục. Mà yếu tố quan trọng nhất vẫn là tinh thần với đức tin tôn giáo, có thể thấy tương lai của mình! Một chuyện điển hình: Vào đầu tháng 1/1982 tôi đang cải tạo tại Trại 6 Nghệ Tỉnh, còn đang mùa Ðông lạnh, mà Trại thì cho ăn tòan khoai mì, lao động thì vất vả, quà bưu phẩm gia đình mấy tháng đó tôi cũng không có. Mỗi tháng 1 lần nhìn danh sách đồng cảnh có bưu phẩm, tôi liên tiếp hơn 10 lần đều không có tên, tinh thần tôi đã thấy giao động. Nếu được thư gia đình cho biết lý do không gửi bưu phẩm được thì tôi cũng yên tâm, đằng nầy cũng bặt tin luôn . Phần lo cho gia đình có chuyện gì ? Phần cơn bịnh hành hạ vì thiếu dinh dưỡng, người tôi hốc hác trông thấy! Bạn bè tưởng tôi buồn vì không có quà gia đình gửi nên thương hại, có nhiều anh em chia sớt quà và thuốc men cho tôi, tuy được an ủi vì tình nghĩa bạn bè tương thân tương ái. Trong lúc bịnh tật đói khổ, nhưng tôi phần lớn nhờ vào đức tin tôn giáo của tôi; sáng đọc kinh, tối ngồi thiền lập tức như có ơn Thiêng Liêng mách bảo tôi “Ngày về đòan tụ gia đình sắp đến rồi, con ráng ăn năn đền tội…” Nhận được ơn riêng nầy tôi thấy khỏe hẳn, thấy yêu đời, thấy được tương lai sau nầy mà không thể chứng minh được… Cách 1 tuần sau, một buổi sáng tập họp tại sân trại, thấy Ban Giám Thị kê bục để đọc danh sách phóng thích theo số lượng tha tù “Z” tức là cải tạo viên chúng tôi được báo trước có 17 người và tù hình sự gồm 50 người (Vì số tù “Z” còn lại ít buồng nên tù hình sự được dời qua ở chung trại nên tập họp ở chung sân). Lúc đó chúng tôi chưa ai biết ai được tha. Riêng tôi như có giác quan thứ 6, linh tính báo trước, sẽ được tha kỳ nầy! Khi đọc danh sách tù “Z” được tha thì Ban Giám Thị đọc thong thả từng người và mỗi người có mặt đứng lên đều được hỏi lại năm sinh, nơi sinh, địa chỉ gia đình để xác nhận cho đúng rồi mới được bước ra khỏi hàng đứng riêng một chỗ . Ðọc được 15 người ; trước tòan cấp Ðại Úy có 2 người chót mà tôi vẫn tin là sẽ có tên tôi. Quả nhiên anh thứ 16 là Thiếu Tá Bé ở Bến Tre và thứ 17 chót là tên tôi.

Trại l Sơn La được mệnh danh là trại “Trâu Cầy” làm việc chỉ tiêu khóan cao hơn các trại khác mà lại cho ăn đói, khiến anh em đi rừng lao động, anh nào cũng kiếm rau hoặc măng để ăn thêm cả củ chuối, bắp chuối rừng được thịnh hành nhất. Nhưng phải giấu lén lút mà ăn vì sợ phạm nội qui. Mỗi buổi sáng phân công lao động và nhận chỉ tiêu ai cũng hồi hộp lúc sắp nghe cán bộ trại sắp đặt cho mỗi tóan mỗi công việc. Ai được cử công việc và chỉ tiêu nhẹ thì mặt hớn hở, còn tóan nào bị chỉ định nặng nhọc và khó khăn thì các khuôn mặt tóan đó buồn hiu như đưa đám tang! Mỗi buổi lao động về có sự kiểm tra và phê bình của cán bộ quản giáo. Thời gian đầu chưa quen công việc nên ít người đạt chỉ tiêu lao đông, có nhiều anh cáo bệnh, khai bệnh đều bị khước từ. Trừ khi có bệnh mê man bất tỉnh. Nếu nóng sốt, cảm cúm, đau bụng chưa phải nằm liệt giường thì được cắt lao động nhẹ là dọn cầu tiêu, khiêng thùng phân từ trong dãy hầm cầu đổ ra ngòai hố phân, rồi rửa thùng sạch sẽ, rắc tro, quét sân, còn giờ lao động thì làm cỏ quanh trại. Anh nào cũng có chỉ tiêu 10 tiếng nếu không làm xong thì phải làm chiều tối, buộc phải làm cho xong. Tôi ở trại 1 Sơn La khỏang 1 tháng mà không được 1 ngày hay nửa ngày nghỉ thì lệnh đột xuất, một số chúng tôi phải chuyển trại, đến trại 4 Sơn La, cách trại nầy khỏang 2 cây số. Cứ mỗi lần chuyển chỗ ở là mỗi lần kiểm tra tư trang. Chúng tôi giờ có còn gì đâu mà cũng bị khám xét theo thông lệ. Trại 4 chúng tôi ở được chia thành 2 nhà (nhà tù cũ). Mỗi nhà chứa được khỏang 200 người, nhà bằng gạch xây lâu đời nên mái và cửa đã hư, không còn vì dấu vết bom đạn tàn phá. Chúng tôi phải lợp mái bằng vải nylon và làm cửa bằng nứa, bằng Vầu cột giây. Giường nằm cũng bằng nứa đan thành những tấm phên to, dưới gác đà Vầu và cây tất cả đều do chúng tôi làm lấy mà ở …Phải mất 2 ngày mới ổn định nơi ăn, chỗ ở. Tại đây chúng tôi lại đi rừng chặt Vầu, chặt nứa, giang và cây làm cột nhà, làm kèo, làm đòn tay, thứ nào cũng khóan chỉ tiêu “mửa mật”. Anh nào già yếu hoặc đau không đi được thì làm công việc tăng gia sản xuất; trồng rau, bắp, khoai sắn, thứ nào cũng tính chỉ tiêu để không ai làm lấy lệ được. Ở đây công việc nhẹ nhất là tăng gia sản xuất mà chỉ tiêu tăng gia thì phải làm 10 tiếng 1 ngày và không có nghỉ ½ ngày Chúa Nhật như tóan đi rừng, ngọai trừ ngày lễ CM như ngày 1/5 Ngày 2/9 hoặc ngày Tết Nguyên Ðán thì được nghỉ nhưng phải cắt phiên nhau trực tưới rau và bảo vệ cây trồng. Tiêu chuẩn ăn của trại là 12 cân, mỗi tháng ăn 3 ngày độn 100%, nghĩa là bắp nguyên chất hoặc mì hạt, khoai mì, khoai lang cũng bằng như số lượng gạo, nghĩa là cho 400gam cho mỗi ngày.

Từ ngày ra Miền Bắc chúng tôi chưa ai được nhận thư từ của gia đình hoặc qùa gửi bằng bưu kiện cũng gián đọan. Làm thì nhiều mà ăn thì ít! Quá đói khổ nên đã có 4 anh trốn trại đi được 22 ngày tới biên giới Trung Quốc thì bị Công An Biên Phòng bắt giải về trại giam riêng. Sau đó có xe của Bộ, có công an đến chở đi, không biết đi đâu!?

Gần 2 tháng ở Trại 4 Sơn La chúng tôi lại được di chuyển đi trại 6 Khe Thắm, Huyện Văn Chấn thuộc Tỉnh Hòang Liên Sơn. Chúng tôi phải đi bộ 2 ngày mới tới Trại 6 vào ngày 11/9/1976. Trại nầy cách quốc lộ chừng 3 cây số. Ðường vào trại đang được công nhân “xây dựng kiều lộ”làm. Họ đang dùng chất nổ phá núi rồi chở đá bằng xe “cải tiến” (như xe ba gác đẩy tay) tới bên lề đường, đập đá bằng búa rồi trải ra mặt đường. Tất cả các công việc nầy đều làm bằng sức người, không có một chút máy móc nào. Ða số công nhân là nữ. Tôi thấy Xã Hội Chủ Nghĩa Miền Bắc thực thi chính sách rất bình đẳng, nam nữ bình quyền như nhau, hễ phái nam làm việc gì thì cũng đều có phái nữ làm như nam giới, kể cả những công việc nặng nề …Không như chế độ Sài Gòn tất cả việc nặng chỉ để phái Nam làm mà thôi (!)

Dọc đường chuyển trại chúng tôi gặp đa số người Kinh, họ nhìn chúng tôi bằng đôi mắt hận thù. Các trẻ em, học sinh gọi nhau ra xem tù binh, xem ngụy quân. Có những chỗ nghỉ dọc đường để nấu ăn hoặc nghỉ đêm chúng tôi mới được hỏi chuyện dân chúng, nhưng ai cũng trả lời cộc cằn, hằn hộc. Hỏi thăm các em nhỏ thì được biết dân ở đây đã được học tập “căm hờn” về “tội ác bán nước của quân Ngụy”. Kể tội lùa dân lập ấp, kềm kẹp, hành quân thì cướp bóc, đâm chết người lấy mật pha rượu uống, ăn gan người và tra tấn đủ mọi cách rất dã man!?

Họ đặt ra những chuyện hãm hiếp phụ nữ thật ly kỳ, phong phú, giàu tưởng tượng. Ðã có em nhỏ hỏi chúng tôi: “Sao bây giờ trông các anh hiền thế mà sao các anh ăn gan uống mật đồng bào, có ngon lành béo bổ gì để ngày nay phải khổ?!” Hỏi chuyện ra thì dân chúng ở đây đã được học tập từ mấy tháng nay về “tội ác của quân Ngụy”. Có cả chiếu phim nữa! Chúng tôi không ai cải chính, chỉ hy vọng sau nầy nhân dân sẽ tìm hiểu chúng tôi hơn! Như cổ nhân đã nói: “Hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu”. Chúng tôi không hiểu CM đào hố chia rẽ chúng tôi với đồng bào để làm chi?

Chúng tôi tới Trại 6 Khe Thắm vào một chiều mưa bay lất phất. Một dãy nhà nứa do công nhân Lâm Trường dựng tạm để khai thác lâm sản bỏ hoang cả năm nay. Trâu bò của dân thường tới ỉa đái từng vũng từng bãi khắp nơi. Chúng tôi phải khẩn trương nấu ăn vì quá đói rồi chia nhau làm vệ sinh dọn dẹp chỗ ngủ tạm. Làm xong vừa ngồi nghỉ, chúng tôi thình lình bị tấn công bởi bầy con “vắt” (giống như đỉa) lúc nhúc từng đàn đánh hơi người “đi đo” tới bám lấy chúng tôi. Vắt chỉ nhỏ bằng que diêm, nó bám vào người thấy ngứa mới biết, bắt, vuốt, gỡ không kịp. Con nào bám vào người thì gỡ không ra. Lấy tay cậy cũng chỉ gỡ được một đầu còn đầu kia con vắt hút dính vào da thịt người. Tôi kéo tưởng nó đứt mà cũng không dứt ra, vì mình vắt qúa trơn lại nhỏ nên rất khó cầm. Chỉ khi Vắt hút máu no to tròn, phình bằng ngón tay út, lúc ấy mới dễ gỡ. Chỗ bị Vắt hút máu, máu cứ rỉ ra hòai, đắp thuốc Lào cũng không cầm máu được, vì khi hút máu con Vắt tiết chất nhớt rải vào vết cắn làm máu bị loãng lỏng, phải biết nặn chỗ máu loãng ra, rồi đắp thuốc Lào mới cầm máu được. Chúng tôi phải đốt lửa thành nhiều chỗ để ngăn chặn chúng từ nơi các bụi cỏ rậm, một mặt đốt đuốc soi để tiêu diệt “giặc Vắt”. Loại Vắt nầy thấy lửa mới chịu bỏ đi, đêm đó chúng tôi ai cũng bị Vắt cắn. Chỗ vết cắn nếu không rửa bằng sà bông là thành mụn ghẻ...

Chỗ ngủ chúng tôi bằng sạp nứa bề cao cách mặt đất chừng nửa thước mà cũng bị Vắt chui vào mùng, vào mền. Có anh đang ngủ thấy ngứa ở bụng, đưa tay gãi thì thấy u lên như cục thịt lồi, thì ra chú Vắt bám hai đầu hút no tròn, gỡ ra máu tràn lênh láng như đàn bà có kinh nguyệt! Hôm sau chúng tôi phải tiễu trừ “giặc Vắt” mất 2 ngày bằng cách cuốc. Chặt hết cây cỏ, chỉ còn đất không xung quanh nhà ở rộng cách khỏang 30m, rồi đốt lửa từng đống, Vắt sợ lửa và sợ ánh nắng mặt trời, hễ chỗ nào ẩm ướt, khuất ánh sáng mặt trời thì chỗ đó có Vắt. Chúng tôi đi rừng phải mang sà bông cục xát vào chân tay trước, chỗ nào có sà bông thì Vắt không bám, chỗ nào không sát thì bị Vắt bám hút, nếu biết lấy sà bông chà ngay vào nó là chúng rớt xuống, lấy chân chà đạp chúng cũng không chết, mình chúng dai như cao su, chỉ lấy dao bầm nát, nhưng xác Vắt bầm nầy có hơi ẩm ướt và nhất là gần hơi người là chúng sanh thành nhiều con như mỗi miếng bầm là thành một con Vắt nhỏ! Mới đến ở chúng tôi còn sợ, tránh Vắt sau quen rồi không còn ghê sợ như lúc đầu nữa.

Ở Trại 6 nầy chúng tôi được phân công làm nhà ở và đi rừng chặt kiếm cây làm nhà, cũng chỉ tiêu như trại 4 và trại 1 cũ. Sáng nào cũng đi rừng từ 6 giờ sáng đến chiều tối mới về đủ chỉ tiêu. Có anh vác gần tới trại là bị xỉu vì mệt, đói, người bạn nào còn sức thì dìu đỡ, khiêng giúp người yếu cho đủ chỉ tiêu. Chúng tôi thể hiện tình đồng cảnh tương thân tương ái giúp đỡ nhau hơn bao giờ hết! Làm cực nhọc chúng tôi không sờn lòng nhưng bụng đói mà phải cố sức liên tục để hòan thành chỉ tiêu dưới thời tiết mưa lạnh, mỗi ngày mỗi đi xa kiếm mới có cây, chỗ chưa có vết chân người tới. Sức chịu đựng con người có hạn mà tương lai thì mờ mịt nên đã làm nhiều anh em nản chí, mất tinh thần. Trong trại tôi đã có 2 anh tự tử bằng thuốc cloroquine và cắt mạch máu ở cổ tay, cả hai đều chết, không cứu kịp.

Sau vụ tự tử nầy chúng tôi được bớt người đi làm rừng, thêm người làm tăng gia sản xuất để “cải thiện” (ăn thêm). Thời gian đầu, trại nầy cho ăn độn 50%, nửa cơm nửa khoai mì 400gam cho một ngày ăn. Sau đó ăn tòan khoai mì, chỉ có ngày lễ mới có độn cơm. Ngày thường cũng đổi “mơ nuy” bắp, bột mì luộc, mì hạt (bo bo) và khoai lang có khi thay củ dong giềng. Thứ nào cũng cân lượng là 400gam một ngày cho mỗi người.

Mấy tháng sau trại đọc chỉ thị của Bộ, kể từ nay Bộ không trợ cấp cho trại nuôi tù nữa, mà trại phải tự túc nuôi tù; nghĩa là trồng được giống gì thì ăn giống nấy! Ðất mới khai hoang tòan đồi núi, chỉ trồng khoai mì là thích hợp, có năng xuất. Nên trại chỉ có khoai mì nuôi chúng tôi. Ăn khoai mì liên miên từ ngày nọ qua tháng kia gần cả năm. Tôi nghĩ con người ta thân xác cũng thích ứng theo hòan cảnh. Lúc đầu ăn khoai mì chúng tôi bị say ói, mửa, tiêu chảy, sau bao tử cũng quen, ăn không thấy sao cả! Anh em ăn khoai mì cũng theo tiêu chuẩn 400gam mỗi ngày, nên vẫn bị đói đến đỗi phải kiếm rau rừng ăn thêm !

Hơn 1 năm cải tạo tại Miền Bắc (1977) tôi không được thư từ gia đình cả Miền Nam lẫn Miền Bắc. Trong khi tháng nào tôi cũng viết thư gửi cho gia đình đều đều, không biết gia đình có nhận được không mà không thấy trả lời? Không riêng gì tôi, mà đa số anh em cũng như tôi, nên tôi nảy ý “Thỉnh tướng không bằng khích tướng”. Tôi liền viết thư gửi chú K. kể lại hồi Miền Nam phát động phong trào chống Cộng, cao điểm nhất là thời Ngô Ðình Diệm có tuyên truyền Miền Bắc theo thuyết “Tam Vô”. Vô Tổ Quốc, Vô tôn giáo và vô gia đình, biến con người không còn tình cảm nữa, kể cả tình nghĩa gia đình ruột thịt! Kết quả chừng 1 tháng sau tôi liên tiếp nhận được thư chú K. và thư chị H. cùng quà bưu phẩm để chứng tỏ người Miền Bắc còn đậm đà tình nghĩa không như tuyên truyền của Miền Nam. Ðang lúc nạn đói, bệnh tật hành hạ chúng tôi, thì đột nhiên bưu kiện Miền Nam gửi tới chúng tôi tới tấp, ngày nào cũng có. Anh nào ít nhất cũng nhận được gói qùa bưu kiện của gia đình gửi vào. Nhưng gia đình viết thư cho biết chỉ xem báo, coi thông cáo mà gửi bưu phẩm, báo, thông báo đời nào cho biết chúng tôi đang đói, đang bệnh, đang suy dinh dưỡng, đang cần thức ăn và thuốc uống. Bưu phẩm đợt đầu chúng tôi nhận được tòan là quần áo, chăn màn, nhất là đồ lạnh; nào tất, găng tay, mũ che tai, khăn quàng cổ, áo len, áo blouson…đủ lọai. Ngòai ra không có một thứ gì ăn được. Ðang lúc chúng tôi đói thèm cần ăn như món thuốc hồi sinh thì lại không có. Có anh nhận được gói quà gia đình gửi mặt mày hớn hở nhưng khi mở ra không thấy có món gì ăn được nên mặt buồn như muốn khóc! Có anh nhận được giấy thông báo mai nhận quà là suốt đêm lục đục vì mừng không ngủ được. Tưởng tượng ngày mai sẽ có một bữa ăn no, có đồ ngọt ăn cho hết thèm. Có anh đã tự nhủ “mai có được hôïp sữa sẽ tu một hơi sửa sống cho đả thèm ngọt.”Nhưng ngày mai anh chỉ nhận được tòan quần áo lạnh và chăn màn, tức qúa anh đã liệng ra sân và ôm mặt khóc hu hu …trách vợ chửi con là ngu!! Ðợt quà đầu tiên ở Miền Bắc chúng tôi nhận tòan đồ mặc lạnh, không ai có đồ ăn. Có một hai anh có được hôïp sữa và gói kẹo với thuốc Lào, coi như gói đó đạt tiêu chuẩn nhất. Thuốc Lào đối với chúng tôi ở xứ lạnh là qúi nhất, như vàng, chỉ 10 viên bi thuốc Lào là tương đương với 1 phần ăn. Có anh thèm thuốc Lào đã đổi khẩu phần ăn lấy thuốc hút. Mặc dù anh đang đói, khi đổi anh còn nói khẩu hiệu: “ Lỡ đói cho đói luôn”. Từ tháng sau bưu kiện từ Miền Nam gửi đến đã có nhiều thức ăn theo thư yêu cầu của chúng tôi nên tình trạng đói, bệnh phù thủng, kiết lỵ đã giảm dần và cũng vì đói cho nên anh nào mà được làm anh nuôi (làm bếp) là lý tưởng nhất vì “giàu ở nhà kho, no thì nhà bếp” mà!

• Thân Bại Danh Liệt Vì Miếng Ăn

Một chuyện đến với tôi trong chức vụ “Bếp Trưởng”. Lúc đó anh Ðịnh trưởng bếp bị tố đã cắt xén phần ăn của anh em đem đổi thuốc Lào nên bị thay thế. Lệnh cán bộ. Quản giáo cho đội tôi (62 người), được bình bầu 1 người có khả năng và trong sạch lên làm Bếp Trưởng thay anh Ðịnh. Trong 4 tổ bầu mỗ tổ 1 người rồi 4 người đắc cử đưa ra trứơc đội kiểm duyệt rồi biểu quyết lấy 1 người và tôi được may mắn đắc cử Bếp Trưởng. Chức nầy là một danh dự vì được anh em tín nhiệm bầu ra chứ không phải chỉ định để bè phái ăn no với chức nầy! Tiêu chuẩn cứ 25 người được 1 anh nuôi theo tỷ lệ 1/25. Trại tôi gần 500 người nên đựợc 18 anh nuôi kể cả tôi làm Bếp Trưởng. Trại tôi có 3 Khối và 10 Ðội mà đội tôi được cán bộ trại tín nhiệm cho lựa người làm Trưởng Bếp và Khối nào, Ðội nào cũng có cử người đại diện làm anh nuôi cho nhà bếp. Hễ chỗ nào có quyền lợi là có sự đố kỵ ganh ghét nhau dù là trí thức cũng không thóat khỏi qui luật nầy: “Ðói thì Thánh cũng thành bần tiện”. Tuy nhiên vẫn có người giữ được nhân cách.

Tôi được tập thể tín nhiệm bầu làm Bếp Trưởng nên tôi quyết tâm không phụ lòng anh em. Ðược 4 hôm tôi làm trưởng bếp rất là “thanh liêm”. Tôi chủ trương không ăn hơn anh em, mặc dù là tôi có quyền, vì thế anh em trong Tổ nhà bếp phải ăn theo y như tôi. Theo thông lệ trước, mâm nhà bếp được giành riêng hơn gấp đôi mâm thường. Khi tôi về làm Trưởng Bếp thì không còn thông lệ nầy nữa mà tôi chia mâm nhà bếp cũng như các mâm ngòai, vì tôi quan niệm các anh em làm ngòai, đi rừng cực khổ hơn anh em làm bếp, đáng lẽ phải được ăn hơn nhà bếp mới phải ! Tôi sinh họat cho anh em về ý kiến nầy.

Trong số 17 anh có một số tán thành, số còn lại không ý kiến gì mà cũng không thấy phản đối. Nên tôi áp dụng phương pháp thi hành. Không ngờ vì miếng ăn đã có người hại tôi bằng cách bỏ tro vào chảo bắp và giấu 1 soong bắp chín vào gầm giường tôi ngủ rồi đi tố cáo với cán bộ trại vào lúc tôi đi lãnh thực phẩm ở trên kho thì ở dưới bếp cán bộ trại tới khám xét và lập biên bản. Cán bộ qui cho tôi 2 tội “Gian tham và đầu độc anh em”. Chỗ tôi ngủ gần chảo bắp, khi tôi lãnh thực phẩm về thì cán bộ đọc biên bản với 15 anh em ký đồng ý đưa tôi ra kỷ luật, vì miếng ăn bớt của tổ bếp, mà tôi bị như “kẻ thù”. Với chứng cớ cụ thể và đa số tán thành, khiến tôi có miệng mà không nói được, không biện minh được vì “tình ngay lý gian”. Nếu anh cán bộ trại có trình độ hiểu biết điều tra cũng thấy tội tôi đều vô lý; tôi đầu độc tro thì chết ai? Bất qúa dơ rửa nước sôi là cùng. Còn tôi gian tham tôi ăn gì mà tới 1 thau bắp, lại để ngay dưới chỗ ngủ đi ngang qua nhìn là thấy liền? Nếu tôi tham, sáng đi lấy thực phẩm ở kho tôi xách thùng bao bị mà mang cả chảo bắp cũng không ai để ý! Cán bộ trại sau đó biết tôi oan nhưng vì danh dự, tự ái lỡ tuyên bố tội tôi nên cũng để thông qua luôn (!) Tôi bị ngưng chức Bếp Trưởng trả về Tổ, Ðội để đi lao động nặng. Ðây là âm mưu của 1 người muốn hại tôi. (Sau tôi biết) Khi về Tổ, Ðội với nỗi nhục nhã của tòan Ðội đã bầu tôi mà tôi đã làm nhục Ðội, nhục Khối. Tôi trình bày bị oan nhưng không có bằng chứng cụ thể! Khiến tinh thần tôi căng thẳng, chán nản không muốn sống! Tôi có ý định tự tử với 17 viên Cloroquine có sẵn. Qua 1 đêm giằng co sự sống với cái chết “đấu tranh nội tâm” cân nhắc…Nếu cái chết oan uổng được giải thóat thì cũng nên. Sau cùng kề cái chết tôi thấy được sự cần sống vì tương lai con cái nên tôi nhẫn nhục chịu đựng sự khinh miệt của anh em! Thế rồi thời gian là thuốc rửa ưu sầu. Gương Chúa 33 năm chịu nạn, chịu khổ vì lòai người soi vào làm ổn định tinh thần tôi! Tôi tiếp tục sống vui vẻ với các bạn tôi. Sau đó tôi được đổi sang Ðội làm đường. Ðội nầy vất vả nhất vì không đi rừng nên không kiếm được gì để “cải thiện”. Suốt ngày chỉ cuốc, xà beng với xẻng đào núi làm đường với chỉ tiêu một người mỗi ngày 1 thước khối đá, đất theo chỗ làm kéo, trang, khiêng, trải mặt đường. Ðào chỗ đá nguyên chất thì phồng tay ngòai, phải làm cả trưa mới đủ chỉ tiêu. Thời gian ở trại nầy gần 1 năm, thì một hôm tôi được cán bộ trại gọi lên trình diện Bộ Chỉ Huy. Ðến đây tôi gặp Trung Tá Thủ Trưởng liên trại. Ông nầy chỉ huy từ trại 1 đến trại 7. Thủ trưởng trại tôi mới cấp Thượng Úy mà cái ông gặp tôi cấp Trung Tá tên Trần Quyết. Thủ trưởng liên trại Bộ chỉ huy ở Sở Trà Trần Phú, cách trại tôi 12 cây số. Tôi đi làm về vào buổi trưa để mang thực phẩm nước uống cho anh em thì được báo “ông lớn” gọi không biết việc gì? Tôi chia phần ăn riêng, ăn vội vàng rồi lên Ban Chỉ Huy trại thì gặp anh Vệ Binh gác ngòai. Anh ta bảo tôi ngồi đợi các vị đang dự tiệc. Tôi ngồi chờ chỗ sân phơi với anh Vệ Binh. Tôi dở trò ngọai giao hỏi biết việc gì? Tôi lấy gói thuốc thơm “Sông Cầu” bóc mời anh Vệ Binh trong khi chờ đợi Thủ Trưởng. Thấy tôi có gói thuốc “sang”, anh Vệ Binh hỏi tôi ở đâu mà có? Ý anh tưởng tôi quan hệ với dân. Sau khi anh biết thuốc nầy do bưu phẩm của gia đình gửi, anh vui vẻ hút được 1/2 điếu thì dụi tắt để dành. Còn tôi hút chơi mà không thấy ngon lành gì hết nên cho anh cả gói còn lại. Anh rất mừng nhận ngay và nhìn tôi với ánh mắt cảm động.

Ðược dịp tôi hỏi anh về Trung Tá Trần Quyết gọi tôi không biết về việc gì? Hỏi anh mấy câu không mấy quan trọng mà như anh cảnh giác trả lời “không biết”! Kế đó anh xuống nhà bếp bọc 1 cái bánh bột mì to gấp đôi khẩu phần bánh mì 1 bữa ăn của chúng tôi. Anh đưa cho tôi, tôi không nhận, tôi nói vừa ăn rồi (mặc dù bụng tôi đang đói). Anh cứ nhét và chiếc áo trận tôi đang mặc. Ngồi một lúc chuyện vãn anh lại nhắc tôi “ăn đi kẻo để trong túi áo phồng to như thế nầy người ta để y đóù!” Buổi trưa hôm đó tôi được 1 bữa ăn thật no để bù lại cả tháng nay bị đói.

Tôi chờ đợi độ 1 giờ thì được gọi lên trình diện Thủ Trưởng. Anh ta là 1 người cao lớn, hơn tôi khỏang 3, 4 tuổi, mặt đỏ gay vì rượu. Thấy tôi ông vẫy tay như chào mừng: “À, Anh Ð. Hả?” rồi vẫn ngồi đưa tay qua bàn chờ tôi bước lại bắt tay. Thấy cử chỉ bắt tay kém lịch sự, như ông lớn tiếp thuộc hạ nên tôi cũng chậm chạp bước tới đưa tay cho ông nắm tay tôi nói chuyện, trong khi tôi đứng bên nầy bàn, còn ông ta ngồi bên kia bàn. Bên cạnh của tôi là Thượng Úy trưởng trại của tôi kéo ghế đẩu để sau lưng tôi kéo tôi ngồi xuống, lúc đó ông Quyết mới chịu buông tay tôi ra. Trưởng trại tôi rót nước, rút điếu thuốc thơm đưa mời tôi. Kế đó là Trung Tá Quyết hỏi lý lịch tôi về quê nội, quê ngọai, tên cha, tên mẹ và họ hàng nội ngọai còn ai? Ở đâu? Mẹ tôi chết ở đâu? Tại sao chết? Tôi cho biết mẹ tôi chết 3 hôm chôn vừa xong, tôi mới ở Kontum về. Tôi nghe cô T. em con dì nói lại là mẹ tôi bị trúng gió, cảm sốt, không kịp chở đi bệnh viện thì chết. Ông còn hỏi tôi “Nguyên nhân tại sao mẹ anh chết anh có biết không?”. Tôi đáp “Theo kể lại thì mẹ tôi trúng gió cảm sốt chết. Bởi huyết áp cao vì trước khi chết mặt mẹ tôi nóng đỏ rồi tái mới chết” Ông ta cười mỉa mai, trách tôi quá ngây thơ đến cái chết của mẹ tôi mà cũng không biết rõ..!!? Kế đó ông tả tính nết, sở thích của mẹ tôi khi còn sinh thời, cả bà Dì và các ông Cậu của tôi. Ông tả từng người một. Tả cả nhà cửa cuộc sống của cậu B. tôi ở phố Khâm Thiên Hà Nội cùng cảnh quê ngọai tôi như người trong họ ngọai tôi biết rõ vậy. Tôi hỏi ông họ hàng với bên ngọai tôi như thế nào để tôi tiện xưng hô cho phải phép? Ông nói sau nầy sẽ biết, không xa lạ gì đâu. Ông nói: “Bây giờ anh đang cải tạo nên cố gắng tiến bộ.” Ông sợ tôi ỷ lại vào sự quen biết họ hàng nên ông lảng sang chuyện khác như cố ý không muốn nhận họ hàng với tôi khiến tôi tự ái không thèm hỏi chuyên ông nữa. Ông có hỏi thì trả lời thôi. Thấy thái độ lãnh đạm của tôi chắc ông cũng hiểu giả lả tỏ vẻ thân mật mời uống nước. Rút thuốc thơm mời hút. Tôi cám ơn không nhận điếu thuốc của ông đưa. Tôi từ chối hút thuốc thường bị ho đêm. Ngược lại điếu thuốc ông Trưởng trại mới vào mời thì tôi nhận hút liền nên ông biết tôi giận. Kế đó ông hỏi tôi có cần gì nhắn cạâu B tôi không? Vì mấy bữa nữa ông đi Hà Nội vài ngày, thế nào cũng ghé thăm cậu B. tôi. Tội nghiệp mỗi lần ghé thăm cậu B đều mừng rỡ! Tôi đáp: “Không cần nhắn gì cả, vì tôi mới viết thư rồi. Mặc dù tôi đang mong muốn gia đình tôi ở Hà Nội biết tôi ở đây mà thăm nuôi hoặc gửi bưu phẩm cho tôi. Ðến đây ông thấy thái độ không vui của tôi nên ông bắt tay tiễn tôi xuống tận bậc thềm. Trước khi tôi đi ông còn dặn tôi câu “Có muốn gì. Hay có gì cần báo cáo thì anh cứ lên gặp Thủ Trưởng trại nhé!” Tôi về đến trại anh em bu quanh hỏi tôi gặp Liên Trại Trưởng về chuyện gì? Tôi cho biết ông ta hỏi lý lịch tôi chắc để bổ sung hồ sơ gì đó. Bẵng đi chừng 2 tuần lễ sau, Trung Tá Quyết tới trại tôi, vào tận láng tôi ở, gọi lớn tên tôi và cho biết ông mới đi Hà Nội về đã gặp cậu B. tôi rồi. Cậu B độ nầy gầy lắm, nhà vẫn là hiệu may cũ. Cây sấu trước nhà trái nhiều và rất ngọt. Cậu tôi có sai mấy đứa nhỏ hái gửi về cho tôi 1 rổ làm quà. Còn bà Ngói (tên Dì tôi hồi còn con gái) đi đánh “chắn” cả ngày. (Chơi bài Chắn kiểu người Trung, người Bắc). Tôi đang ngồi chơi cờ tướng với bạn, định đứng lên tiếp chuyện ông, nhưng ông đè vai tôi xuống bảo cứ tiếp tục chơi đi, vì hôm đó nghỉ lễ Quốc Khánh 2/9/1977 được nghỉ nguyên ngày, có ăn bồi dưỡng cơm, thịt heo, nên ông trưởng trại tôi dẫn ông xuống xem nhà bếp làm thịt heo. Sau lần gặp gỡ nầy anh em hỏi tôi họ hàng với ông Quyết ra sao? Tôi đáp “không biết”. Nhiều người cho tôi may mắn có họ hàng làm lớn lại đang có chức vụ quyết định số phận cải tạo, thế nào tôi cũng được ân huệ tha sớm!

Thế rồi tết năm đó Trại có đọc danh sách tha về khỏang 10 người mà không có tên tôi, ai cũng nói chắc giấy đề nghị chậm có đợt tha tới. Và rồi đợt tha mấy lần sau cũng chẳng có tên tôi, nên sự chú ý vào tôi cũng bớt. Sau anh em thấy tôi lao động cực khổ, bảo tôi xin ông làm việc nhẹ như xin làm nhà kho cho no hơn mà nhàn thân. Nhưng anh em đâu có biết tính tôi, thà chết chứ không mở miệng xin xỏ, nhờ vả như vậy nó hèn hạ! Nếu là tình nghĩa họ hàng thì chính ông Quyết có bổn phận giúp đõỡ tôi mới hợp lý. Riêng tôi không muốn mang ơn ông Quyết, nếu có giúp đỡ tôi cũng từ chối ân huệ nầy! Thời gian kế tiếp tôi vẫn chịu đựng bao công việc khổ sở. Hết làm đường, lại đi rừng lấy cây, nhất là mùa Ðông núi rừng hiểm trở phải đi 3, 4 ngọn núi mới lựa được cây chặt đúng chỉ tiêu. Nhiều lần tưởng chết với tai nạn lao động. Có lần trên núi cao chặt Giang, tôi được 1 bó đang ngồi nghĩ nhìn triền núi để tính đưa bó giang của tôi xuống trước, vì phía dưới là vực thẳm cả ngàn thước. Thình lình có tiếng rầm rầm do cây ngả, đá đổ. Cây gẫy răng rắc phía trên núi hướng xuống phía tôi ngồi. Tôi vừa đứng lên quan sát thì thấy một khúc gỗ to lăn tới ngay tôi với tốc độ nhanh kinh khủng. Tôi chỉ kịp phản ứng tư nhiên của con người khi bị nguy hiểm cấp thời, tôi phóng mình nằm sấp giấu đầu vào gốc cây phía dưới hướng lăn, lập tức cây gỗ lao vút qua người tôi xuống vực thẳm. Tôi ngồi lên thấy một bên đùi bị tê dại, có vết trầy rách quần một đường dài. Hú hồn! Nếu tôi chỉ chậm 1 giây thôi, tôi đã bỏ mạng vì cây cán lên người, cũng có thể lăn theo cây mà lao xuống vực thẳm dưới chân núi. Tôi ngồi lặng đi như người mất hồn cả gần nữa tiếng mới thấy các anh em bu quanh tôi, băng vết thương, chỗ mông chảy máu. Hai người xốch nách tôi dìu xuống núi vì 1 chân đau ê ẩm không tự đi được. Sau tai nạn nầy tôi được nghỉ 3 ngày và cả tháng làm việc nhẹ ở trại mời hết đau. Kế đó trại tôi cử 1 tóan đi Liên Trai tại Nông Trường Trà Trần Phú để làm nhà tiếp tân cho Liên Trại (Chỗ ông Quyết).

Trong tóan nầy có tôi, được phân công đánh tranh lợp mái nhà với 5 người nữa. Tôi đan tranh phía trước Bộ Chỉ Huy Trại và nhà ông Quyết ở đằng sau văn phòng Bộ Chỉ Huy trại. Khi trình diện nhận công tác tôi đã được gặp ông Quyết. Ông cũng vẫn niềm nở hỏi chuyện tôi như những lần gặp ở trại tôi, rồi thì công việc ai nấy làm. Có một buổi trưa trên phòng ăn phía trước Bộ Chỉ Huy liên trại đi xuống, có 1 anh mang cấp Trung Úy đi tới chỗ tôi, miệng còn ngậm tăm, dừng lại chỗ tôi làm, hỏi tôi sao không nghỉ ăn cơm? Khi biết tôi làm xong tấm tranh đó mới đủ chỉ tiêu, anh ngồi xuống kế bên hỏi tôi, hồi chế độ cũ làm gì? Cấp chức gì? Và vợ con hiện ở đâu? Có nhận được thư từ gì không? Anh còn hỏi tôi có họ hàng gì với ông Quyết mà sao thấy tôi nói chuyện với ông ta về họ hàng và gia đình? Tôi đáp là chính tôi cũng không biết, chỉ biết ông có họ hàng với bên ngọai tôi, ngòai ra tôi không biết gì hơn! Kế đó anh Trung Úy nầy vào nhà lấy phong bánh lương khô Trung Quốc ra cho tôi. Tôi từ chối không nhận. Anh cũng nhét vào tay tôi bảo tôi nghỉ tay ăn đi cho đỡ đói. Khi tôi ăn xong anh còn bưng ca nước trà cho tôi uống, còn ông Quyết cũng ở đó mà chưa bao giờ mời tôi hoặc cho tôi một thứ gì. Tôi cũng không mong như vậy! Nhưng tôi đề cập để biết tánh nết con người ông ta! Tôi ở Trại 6 Khe Thắm được một năm rưỡi, lần nào ông Quyết đến trại cũng ghé hỏi thăm tôi. Ông kể chuyện gia đình họ ngọai tôi rất thân mật. Mỗi lần như vậy cả trại đều đứng xung quanh nghe ông hỏi chuyện. Người hỏi điều nọ, người yêu cầu điều kia. Riêng tôi không hỏi ông chuyện gì cả, chỉ trả lời khi ông hỏi tôi mà thôi.

Thời gian ở trại nầy chúng tôi cũng được học thêm 4 bài chính trị:

Bài 13: “Chế độ tư bản vô cùng phản động xấu xa”
Bài 14: Chủ nghĩa Ðế Quốc cực kỳ phản động lỗi thời, càng ngày càng suy yếu.
Bài 15: Chủ nghĩa xã hội là tốt đẹp nhất trong lịch sử lòai người.
Bài 16: Phong trào thế giới đang ở thế tiến công và liên tiếp thắng lợi.

Bốn bài học nầy chỉ nhìn vào đầu đề là biết được cả ý của bài. Trong bài nêu lên sự xấu xa của Ðế Quốc và so sánh sự tốt đẹp của chủ nghĩ xã hội, Loài người muốn tốt đẹp là phải theo. Không còn con đường nào tốt hơn. Bài 16 còn trích ghi thêm một vài tin thế giới, đa số hưởng ứng phong trào CM tiến tới XHCN và sự chống đối với đế quốc tư bản…Ngay cả nhân dân trong các nước tư bản cũng nổi lên chống đối lên án chế độ tư bản vv… Bốn bài học nầy, chúng tôi chỉ học khi trời mưa bão không đi rừng được, mà học cũng không có ai hướng dẫn, chỉ nhâïn tài liệu đọc chép xong rồi từng Tổ ngồi thảo luận ghi vào biên bản học tập thông suốt, thảo luận sôi nổi tốt đẹp (!) Bề ngòai như vậy, nhưng không thấy cán bộ thì đánh cờ, vá quần áo, viết thư gia đình vv… Những lúc có cán bộ đến thì có anh trực sẵn, phát biểu ý kiến, anh khác chất vấn, anh kia trả lời ăn khớp nhau cho đúng ý chính của bài học. Khi cán bộ vừa bước ra khỏi láng thì lại tiếp tục đánh cờ, làm linh tinh. Học tập chính trị đối với chúng tôi là ngày nghỉ xả hơi tại chỗ, cho nên ai cũng khóai học chính trị. Có những buổi sáng trời âm u, cán bộ nhìn trời hỏi liệu có mưa không ? Chúng tôi đa số cho ý kiến, trời xấu, thế là tiếp tục học bài chính trị lần trước còn chưa thông suốt lắm xin cán bộ cho học thêm… Thế là được nghỉ lao động để học chính trị. Khi cán bộ tuyên bố nghỉ để học chính trị thì tiếng hoan hô lại nổi lên. Có anh cao hứng hô to “chính trị muôn năm”!

Ðến trung tuần tháng 2/1978 trại tôi đã thấy có công an vào thăm trại và ít hôm sau trại tôi có danh sách từng tóan khỏang 100 người di chuyển về Miền Nam do Bộ Nội Vụ và Công An quản lý. Ðã có mấy tóan được gọi đi trước. Ai được ở lại với tôi đều nghĩ là sẽ đi chỗ tốt vì họ biết tôi có Họ với ông Liên Trại Trưởng, chắc tôi thế nào cũng được ân huệ nầy.

Ngày 24/2/1978 có danh sách gọi tên tôi đi cùng gần 100 anh em nữa và trong số nầy cũng mừng là cùng được đi chung với tôi. Không biết có được như họ nghĩ không ? Trước ngày cũng lại thủ tục kiểm tra hành lý; cũng bỏ bớt một số đồ dùng. Cũng di chuyển ban đêm bằng xe vận tải Molotova bít bùng. Ði từ 7 giờ tối đến 6 giờ sáng thì tới Yên Bái. Chúng tôi được ở trại 5 là trại trống không người ở. Có một số bộ đội kiểm tra quần áo, ai rách quá thì được phát 1 bộ bà ba xanh. Những tư trang, tiền gửi đều phải ký xác nhận để cán bộ phụ trách áp giải chúng tôi mang theo bàn giao lại cho trại mới. Kế đó chúng tôi được di chuyển đến Liên Trại ở Yên Bái cách đó chừng 1 cây số để khám bệnh và duyệt xét hồ sơ cá nhân của 3 năm cải tạo. Ai cũng hy vọng còn mấy tháng nữa đủ 3 năm sẽ được tha ra theo như trong chính sách 12 điểm mà chúng tôi đã được học tập. Lần nầy các “vị tiên tri” đều đóan là sẽ được chuyển sang công an quản lý để phân tán đều cho các khu kinh tế mới. Nếu anh nào “nợ máu với nhân dân” nhiều thì sẽ đi an trí ở Nông Trường vv… Từ trước tới nay mỗi lần chuyển trại đến 1 nơi mới nào thì đều đói khổ hơn nơi cũ, nhưng chúng tôi vẫn mong đi và có đi mới hy vọng … và mỗi lần đi mới đóan được số phận tù lâu hay ngắn! Mấy ngày ở Yên Bái kiểm tra xong rồi, đòan xe chở chúng tôi tới ga Yên Bái, lên xe lửa lần nầy được ngồi toa hành khách đàng hòang, nhưng các cửa sổ thì đóng kín. Giữa lối đi toa nọ sang toa kia đều có bộ đội canh gác. Khi chúng tôi lên xe đi thì có mấy anh bộ đội mang theo một lô còng sắt số 8 mà chúng tôi gọi là “Ðồng hồ sây-cô đôi”. Ðược cái may là trên đường di chuyển lần nầy đi, không ai được xử dụng đồng hồ “Sây Cô Ðôi” hết. Từ Ga Yên Bái đến Ga Vinh là 3 ngày, 3 đêm. Tàu chạy suốt qua Hà Nội ban đêm. Dọc đường lần nầy tương đối thỏai mái. Ai có tiền xin bộ đội mua ăn lúc tàu ngừng ở các Ga cũng được dễ dàng. Ba năm trời xa cách xã hội bên ngòai nay mới được xử dụng đồng tiền (Tiền nầy giữ từ lúc ở tù, nay mới được xài). Ở các Ga xe lửa bán đủ các thức ăn. Nghe rao “phở 5$ một tô”, ai cũng lâu ngày không biết mùi phở ra sao, nên nhiều anh em mua ăn, không dè phở bán cho tù mà cũng bị chê … Tô phở gồm 1 nhúm hủ tiếu khô với nước váng hành mở, vài lát thịt heo, tí ớt, bột ngọt, rau thơm. Nếu để nhìn thì giống tô phở, nhưng khi ăn không dám gọi là phở vì không ra cái gì hết! Còn bánh chưng (giống bánh tét) thì 4$ một chiếc vuông bằng gang bàn tay, bánh pha gạo nên cứng ngắc. Khi tàu sắp chuyển bánh thì người bán, rao hạ giá còn 3$ một cái. Có anh trả 5$ hai cái, cũng bán. Thấy rẻ nhiều người xúm vào mua hết mấy thúng bánh chưng. Dọc đường bóc ra ăn, nhiều anh phải kêu trời vì bánh tòan là “đất bọc lá”. Ba năm trời xa cách xã hội bên ngòai, tôi không ngờ sự lừa gạt trong XHCN Việt Nam ngày nay đã đạt tới đỉnh cao mà tôi không thể tưởng tượng nỗi! Khi tàu tới Ga Vinh thì dược chuyển qua Ô-tô vận tải, đi mất một ngày thì tới Thanh Chương –Nghệ Tĩnh. Cũng có qua Ðô Lương, qua Huyện Nam Ðàn (quê hương Bác!) Dọc đường có công an đứng “giàn chào” như chào đón phái đòan cấp cao…

Chúng tôi tới Trại 6 Nghệï Tĩnh vào lúc 4 giờ chiều ngày 4/3/1978. Trại nầy được xây dựng từ lâu nên đủ tiêu chuẩn của 1 trại giam tù kiên cố. Tường bằng đá tảng, dầy 5 tấc, cao 4 thước, trên có gắn miểng chai và giây điện. Trên bờ tường mỗi góc trại đều có 1 chòi canh. Chiều dài trại khỏang 400m. chiều ngang khỏang 200m. Bên trong trại là 2 dãy nhà, có tường ngăn từng nhà đều xây bằng đá tảng. Trại gồm 14 nhà giam và 1 dãy nhà kỷ luật. Trại chứa khỏang 2000 người. Phía sau trại là trại tù hình sự (tù trộm cắp, giết người) đa số tù là người địa phương và tù người Bắc. Khi vào tập họp ở trại chúng tôi được bộ đội giao trả lại tư trang của từng người gửi như : đồng hồ, nhẫn, giây chuyền, kính… Còn tiền thì đã trả trước khi đi. Ai cũng phải ghi 3 chữ “Ðã nhâïn đủ” và ký tên. Những thứ nầy được ở với chúng tôi qua 1 đêm, sáng hôm sau thì cán bộ công an đến nhận lại của chúng tôi, đủ không thiếu một món gì! Tới trại nầy chúng tôi được chia thành từng đội, mỗi đội 100 người ở 1 buồng, 6 giờ chiều là phải vào hết trong buồng. Hôm đầu thì có 4 tù hình sự bưng thau bánh mì (bằng bột nắn tròn dẹp như chiếc bánh tiêu), có thịt heo kho, mỗi người được 2 miếng bằng đốt ngón tay. Thủ tục điểm danh trước khi đóng cửa buồng, chúng tôi phải ngồi xếp hàng đôi trên sàn ciment. Khi giám thị công an vào là đội trưởng đứng lên hô: “Tất cả chú ý!” là mọi người lập tức ngồi thẳng hàng, yên lặng để cán bộ trại 2 người đếm theo số lượng Ðội Trưởng báo cáo, khi xong đóng cửa mới được “tự do” trong khuôn khổ nhà giam.

Mỗi buồng có 2 bóng điện 50 W, đèn chạy máy phát điện riêng của trại. Ðèn điện sáng từ 7 giờ tồi đến 9 giờ tối thì tắt. Sáng 5:30 có kẻng báo thức là cửa mở, chúng tôi lại ngồi xếp hàng đôi như chiều hôm trước để cán bộ đếm. Ðiểm danh xong thì làm vệ sinh cá nhân đến 6 giờ ra sân trại tập họp theo từng đội, lại báo cáo nhân số cho trực trại để nhận lệnh công tác cho từng đội . Riêng chúng tôi vì mới đến nên được vào buồng mang hành lý ra sân kiểm kê rồi nộp trại tất cả tư trang và quần áo nhân sự. Chỉ mặc đồ của trại phát là đồ trận của quân đội VNCH cũ và đồ bà ba xanh phát ở Yên Bái. Tất cả quần áo đều đóng dấu chữ “C.T6” Hai dấu trên áo phía trước và sau. Quần cũng hai dấu ống trước, ống sau để phân biệt tù và dân. Vì dân ở đây cũng mặc đồ giống tù.

Nhìn vào chỉ phân biệt có dấu và không có dấu mà thôi! (Hình như dân mua đồ của tù). Kế đó chúng tôi làm thủ tục khai báo, sơ yếu lý lịch, cùng học bản nội qui 38 điều giống như ở Liên Trại bộ đội và 10 điều nếp sống văn hóa, văn minh mới như: Tóc râu phải sạch sẽ, quần áo, chăn màn phải xếp ngăn nắp, khi thấy cán bộ phải chào hỏi bằng câu “Chào cán bộ”. Mỗi khi đi đâu phải báo cáo. Cán bộ dẫn giải lý thuyết học nếp sống “văn hóa – văn minh”. Thực tế thì trại chúng tôi ở rệp nhiều hơn kiến. Ðêm đầu ngủ chúng tôi bị rệp đốt suốt sáng. Hôm sau mùng màn rũ xuống đất như mè đen rải, con nào cũng no máu. Nhiều anh giết từng con lấy máu viết lên tường thành chữ XHCN VN. Hôm sau cán bộ thấy hỏi ai viết chữ nầy? Anh Trung Tá Thức (giáo sư Viện Văn Hóa Vụ trường Võ Bị Ðà Lạt) đứng ra nhận, lập tức bị giam vào nhà giam kỷ luật 15 ngày. Về tội “Viết lên tường bằng máu rệp. Phỉ báng chế độ?” Khi xong thủ tục nhập trại chúng tôi bắt đầu lao động. Trại 6 Nghệ Tĩnh là trại chuyên cải tạo tù hình sự từ năm 1956. Hơn 20 năm thành lập, trại dưới sự chỉ huy của Cục Quản Lý Trại Giam do công an phụ trách như 1 nông trường sản xuất. Trại chứa khỏang 1000 tù hình sự. Khi chúng tôi đến là năm 1979. Các trại gần biên giới VN Trung Quốc phải di tản dồn về trại nầy nên tù hình sự ngày càng nhiều thêm…

• TRẠI CẢI TẠO CÁ HỘP
Ðến hôm nay (1979) thì trại nầy số lượng tù lên tới gần 3000 người. Tù hình sự lẫn tù chính trị, gọi là “TÙ Z” hay cải tạo viên cũng vậy. Trại tù đông gần gấp đôi khiến trại phải đục tường mở thêm trại rộng ra phía sau. Xử dụng cả hội trường làm nhà giam bằng cách đóng tôn quây kín chung quanh với giây thép gai. Tù nằm mỗi người ½ thước, xếp lớp như cá hộp, chỉ chừa lối đi ngay giữa. Ðêm tối đi cầu, đi tiểu vào thùng, sáng khiêng ra xe cải tiến đổ vào hố phân để tưới rau cho trại. Tắm ra giếng quay từng thùng, phải xếp hàng lấy nước, có thùng thì xách thùng, không có thì gamelle, lon, ca, bất cứ thứ gì có thể xử dụng được. Trại 6 Nghệ Tĩnh nầy được xây dựng thành 1 nông trường lớn với cả nghìn mẫu đất trồng từ trà, rau cải, đậu phộng (lạc), khoai mì (sắn) đậu đen, đậu xanh, bắp và mía. Ðội tôi được cắt vào lô trồng mía. Ðội lao động nầy khỏang 50 người. Từ cấp Thiếu Úy đến Trung Tá, cấp Thiếu Úy, Trung Úy có khỏang 10 người, cấp Ðại Úy đông nhất vì đa số còn trẻ. Các cấp ở lẫn lộn không theo cấp bậc, phân chia các nhân lực lao động đồng đều cho các đội, có già, có trẻ, có khỏe, có yếu, mục đích để lao động sản xuất. Ngoài ra có 5 đội xây dựng, gồm có 2 đội cung cấp đá. Một đội nung đá thành vôi cung cấp cho 2 đội xây cất. Trại phân chia ra nhiều lô trồng trọt sản xuất theo nhu cầu, theo địa thế đất đai bố trí nhân lực theo từng “lô“. Lô nào cũng xen kẽ mọát sồ tù hình sự để làm một số việc tín cẩn như coi kho, đi rừng lấy củi, chặt gỗ cung cấp cho xưởng mộc và hai bếp. Bếp hình sự và bếp “Z”. Tù hình sự quản chế thong thả hơn tù “Z”, được ở lô trông coi đồ dụng cụ nông nghiệp và bảo vệ hoa màu, lô nào cũng có phương tiện chuyên chở bằng xe trâu. Tù “Z” được quản chế chặt chẽ hơn. Qui định 1 tù Z bằng 100 tù hình sự. Tù hình sự trốn thì chỉ thông báo truy nã các nơi. Còn tù Z mà trốn trại là báo động tập trung công an hành quân lục sóat. Ngòai ra lô mía có lò nấu rượu, có máy ép mía, lọai máy cổ lỗ của Ba Lan. Hôm đầu đội tôi đi lao động có 1 quản giáo và 2 dẫn giải (đều là công an thuộc Cục Quản Lý Trại Giam) dẫn tới ruộng mía để “thu họach” mía. Phân công theo chỉ tiêu, cứ hai người chặt thì một người gom cột thành từng bó bỏ lên xe trâu để tù hình sự chở vào lô chế biến; tức là đưa vào máy ép, nước mía chảy vào máng xuống chảo nấu thành mật, mật tốt để ăn, mật xấu thì chứa vào bể ướp men hóa học nấu rượu. Ðội tôi chặt mía, cứ 2 giờ được nghỉ 10 phút. Nếu quản giáo thấy lao động tốt, đạt chỉ tiêu thì mỗi người được “bồi dưỡng” 1 cây mía trong giờ nghỉ, tuyệt đối khi làm không được ăn, nếu cán bộ bắt gặp vi phạm có hình phạt như bị đánh đập vv…

Như để dằn mặt tù “Z”, ngay hôm đầu lao động chúng tôi đã chứng kiến 1 tù hình sự bẻ mía ăn bị bắt quả tang bị 3 công an dẫn giãi đánh “bề hội đồng”; nạn nhân đứng giữa, 3 công an đứng bao quanh đấm đá, dùng báng súng AK đập vào người, mũi súng thọc vào ngực. Tù hình sự nầy qùi lạy cũng không tha! Ðánh đến ngất xỉu mới thôi! Giờ làm việc qui định, sáng từ 6 giờ đến 11 giờ. Chiều từ 14 giờ đến 17:30, bắt tay vào làm việc là đúng 8 tiếng, còn nửa tiếng cho thời gian đi đến nơi lao động. Mỗi buổi làm xong, cán bộ quản của đội kiểm tra phê bình từng người, đa số chưa đạt chỉ tiêu. Nếu ai làm kém dưới chỉ tiêu nhiều qúa thì được gọi ra trước đội cảnh cáo và hứa việc làm tới sẽ đủ chỉ tiêu! Tiêu chuẩn ăn của trại nầy cũng 400 gam 1 ngày. Ăn tòan là khoai lang, khoai mì, bắp, bo bo và bánh bột mì, chỉ có ngày lễ thì được ăn 2 chén lưng cơm với 2 lóng thịt heo hoặc thịt trâu, nếu làm thịt trâu thì phải ăn cả da trâu nấu kẹo lại (như a-dao), ăn kém hơn trại cũ vì không có rau rừng mà cải thiện! Làm thì chỉ tiêu khóan cao mà ăn thì ít, đói quá đã có nhiều anh chịu không nỗi, hễ làm khoai thì lén ăn khoai sống hoặc nướng vào đống lửa hút thuốc, làm mía thì bẻ mía cắt nhỏ giấu trong người, nên đã có tù “Z” bị đánh như tù hình sự. Thọat đầu thì phản đối tiêu cực bằng biên bản đề nghị trại không nên đối xử như tù hình sự. Sau có anh phản ứng vạch ngực thách bắn, lần sau chống cuốc không làm. Sau trại chỉ thị các đội phải tự kiểm sóat lấy nhau, đừng vi phạm thì không bị đánh! Sở dĩ vi phạm nhiều là vì quá đói và chỉ tiêu lao động xuống thấp, nên trại cho “cải thiện” mỗi tuần 1 lần, mỗi đội bớt 1 người đi hái rau lang, rau má, mót khoai ở ruộng về nấu cho đội ăn thêm. Dần dần trại cho mua ngòai dân khoai mì, khoai lang, tùy theo đội do tài ngọai giao của đội trưởng. Mỗi đội có 1 đội trưởng, 1 đội phó kiêm thư ký thống kê, 2 người nầy chỉ cắt đặt chia chỉ tiêu cho từng người nên được miễn lao động. Quản giáo phụ trách lô, chỉ huy đội là người có quyền hành sinh sát trong tay. Lô nào quản giá tốt thì cho “cải thiện” nhiều, nghĩa là cho hùn tiền nhau gửi mua khoai, mua gạo, có khi có cả thịt chó, thịt heo, tùy thuộc Quản Giáo. Tiền theo nội qui thì không được cất mà phải gửi trại. Quản giáo can thiệp trại rút tiền gửi mà cải thiện đội. Có anh không có tiền phải bán quần áo, chăn màn, có gì bán được thì bán qua tay tù hình sự làm ngòai trại bán cho dân, lẽ dĩ nhiên qua trung gian phải mất một nữa giá tiền tùy theo món hàng . . .


• BẮT ÐẦU THĂM NUÔI

Chúng tôi ở trại 6 Nghệ Tĩnh được hơn nửa năm gia đình mới đến thăm nuôi tiếp tế, thực phẩm sống không cho nhận. Quà của thân nhân tù “Z” thăm nuôi gồm có: Mì gói, bánh mì khô, cốm dẹp, cơm sấy… Các thứ bột chín như bột đậu nành, đậu xanh, bột Bích chi, sửa bột, lạp xưởng, thịt kho khô, bánh tét, bánh dầy…Ðồ hộp, sữa hộp, bơ hộp, (buter oild) mỡ thực vật (magarine). Tòan đồ cứu trợ bão lụt của Hội Ðồng Kinh Tế Châu Âu gửi cho nạn nhân bão lụt VN mà thân nhân mua được ở dọc đường từ Miền Nam tới Nghệ Tĩnh. Tóm lại thực phẩm phải chín sẵn, (Vì nội qui không cho nấu nướng) để lâu không hư, nhưng cho nhận cũng có hạn; không được qúa 30 ký. Khi có thân nhân thăm nuôi (Ða số ở Miền Nam) anh tù “Z” đó được nghỉ 1 buổi lao động, ra nhà tiếp tân ngòai trại, khi ra phải ăn mặc sạch sẽ, râu tóc ngắn, không được mang thư từ. Gặp thân nhân tại nhà tiếp tân, luôn có công an bên cạnh, không cho nói ngòai chuyện hỏi thăm gia đình, được ăn cơm 1 bữa với gia đình nấu sẵn, Gia đình tiếp tế thức ăn phải do công an kiểm sóat. Thứ nào không cho nhận thì gia đình năn nỉ sao cũng không được. Tiền bạc cho phải đưa qua anh công an nầy giữ nhập vào trại chung với tiền gửi trước. Cũng có anh được gia đình khéo léo giấu trong thức ăn, 10 lần thì may ra lọt được 2 lần, vì vào cổng trại phải qua Ban Giám Thị kiểm sóat rất kỹ, từng bao thuốc lá cũng phải bóc nắn từng điếu, túp kem đánh răng cũng lấy que xâm, thực phẩm phải sớt sang qua đồ đựng khác để kiểm sóat. Bánh kẹo, thuốc lào cũng phải cắt nhỏ xem bên trong có cất giấu tiền bạc, thư từ gì không? Giữa người gửi (thân nhân tù “Z”) và cán bộ trại kiểm sóat là hai đối tượng đấu trí với nhau, khôn khéo thì tù được nhờ, còn vụng dại bị xét gặp tiền là tịch thu, nếu có thư giấu thì lần sau không được thăm nuôi. Hễ có 1 tù Z được thăm nuôi thì một số bạn bè được no vài bữa, riêng cá nhân được no từ nửa tháng trở lên tùy theo gia đình gửi đồ, nếu giấu được tiền thì no được vài tháng. Có một độ thân nhân thăm nuôi lựa lúc cán bộ kiểm sóat đi ra ngòai mồi lửa hút thuốc hoặc nói chuyện với bạn ở ngòai sân đã lén đưa tiền cho tù Z giấu kỹ trong người, giấu trong thực phẩm đã kiểm sóat rồi mà khi về đến cổng trại cán bộ lôi ra ngay chỗ giấu. Thì ra công an đã cho tù hình sự phục trên mái nhà để quan sát rồi báo cáo. Sau anh em biết nên dặn người nhà chờ đội đi làm ngòai ruộng mà liệng đưa, dù có bị bắt cũng dễ xin hơn. Có khi chỉ mất 1 gói thuốc nếu biết “ngọai giao”.

Tỷ lệ tù “Z” được thăm nuôi 30%, đây là 1 cuộc trắc nghiệm tình nghĩa gia đình với tù “Z”. Có anh được thăm nuôi mỗi tháng 1 lần, có anh không được lần nào cũng tùy theo hòan cảnh gia đình của từng người. Có người chỉ gửi quà bưu phẩm bằng cơm khô, ít đường, ít muối mè nhưng thể hiện được tình nghĩa vợ chồng, cha con, anh em quyến thụôc. Có những bà vợ đã nhịn ăn để tiếp tế cho chồng qua những bức thư đầy tình nghĩa, đức hạnh của đàn bà Á Ðông, ngược lại cũng có bà “ôm cầm thuyền khác”, hoặc có tiền nhưng vì ghen nên để trả thù chồng ngày xưa đã “mèo chuột”, vợ nhỏ, vợ lẽ. Có một bà dẫn chồng mới đến thăm chồng cũ với ít quà bánh, xin chữ ký của chồng cũ vào đơn ly dị để kết hôn với chồng mới! Ngòai ra hằng tuần cũng có quà gửi bằng bưu điện từ các nơi trong nước đến ngọai quốc gửi về, những bưu kiện nầy được kiểm sóat trước mặt người nhận và có những thứ không cho nhận như thuốc chích, cà-phê, ớt, tiêu, tỏi và những thứ kích thích như rươu thì tuyệt đối không được nhận. Thuốc tây chỉ cho nhận những thứ thuốc viên thông dụng như thuốc bổ hoặc thuốc trị bịnh thông thường mà thôi. Về lao động thì làm theo chỉ tiêu, hễ làm xong sớm trước 1 giờ thì hôm sau chỉ tiêu làm tăng lên. Ví dụ: Khoán 150m2 làm cỏ cho mỗi người mà trong đội có ¼ xong sớm trước 1 giờ thì hôm sau chỉ tiêu sẽ tăng lên 200m2. Có nghững người yếu làm từ đầu giờ làm đến hết giờ nghỉ cũng không xong chỉ tiêu. Sau kinh nghiệm, những người khỏe thì làm cầm chừng (câu giờ) để đợi người yếu làm cùng xong. Cũng có trường hợp anh nào xong trước qua làm tiếp người chưa làm xong để cùng đủ chỉ tiêu. Làm việc ở lô mía gồm có chặt mía lớn, trồng mía mới bằng “hom mía cũ” tức ngọn mía, làm cỏ, bóc vỏ mía già về đan tranh lợp nhà. Công việc nặng nhất là đào gốc mía cũ để trồng mía mới vì gốc mía cũ đã thu họach đến 3 lần mới thay, gốc đã ăn sâu xuống đất có cả 40cm nên phải cuốc sâu, nạy từng gốc, theo chỉ tiêu ai cũng phồng tay mới đạt chỉ tiêu. Ở lô mía độ 3 tháng đội tôi được bổ sung sang lô đậu phộng đậu xanh và trồng bắp. Làm ở lô nầy gặp quản giáo Ðức rất tham việc, cứ đầu giờ làm và cuối giờ làm là y có mặt, thấy có người nghỉ xong chỉ tiêu trước chừng 15 phút là trách đội trưởng phân chia chỉ tiêu sao để nghỉ sớm vậy! Phải tăng số khóan lên cho hợp giờ nghỉ, nên mỗi khi có quản giáo đến dù đạt chỉ tiêu rồi cũng cứ làm, làm của mình xong thì qua làm giúp bạn chưa xong. Sự khôn khéo của đội trưởng là khóan việc vừa lòng quản giáo mà cũng vừa lòng anh em. Nếu đứng về phe quản giáo mà ép khoán anh em làm nhiều thì bị anh em chửi mà bênh anh em làm khóan ít thì bị quản giáo thay đổi đội trưởng khác làm đội trưởng. Ðội phó thống kê, tuy không phải làm lao động chân tay như anh em nhưng phải biết ngọai giao, biết dung hòa để vừa lòng quản giáo lẫn anh em, nhất là phương diện ngọai giao cho anh em cải thiện. Nếu anh em thấy đội khác được cải thiện nhiều mà đội mình không có thì đội trưởng bị anh em chỉ trích hoặc làm không đạt chỉ tiêu. Do đó đội trưởng và quản giáo cho anh em cải thiện no thì làm việc tốt, còn không thì thế nào cũng có làm tắc trách, làm lấy lệ, còn thực chất năng xuất kém.

Trong năm đầu lao động tại trại 6 Nghệ Tĩnh vì chưa có sự hiễu biết nhau giữa cán bộ và tù “Z” nên có nhiều sự chống đối nhau, nhất là cán bộ giám thị trại thường lùng bắt nấu nướng, khám xét tịch thu thực phẩm tươi như gạo, khoai bắp vv… Không những xét bắt trong trại, mà lục xét khi đi làm về, sai tù hình sự khám mò mẫm trong người và xách tay, đem 1 củ khoai chín cũng không được. Nội qui thì cấm nấu nướng, cấm thực phẩm sống còn có lý, đằng nầy thực phẩm chín cũng không cho mang vào trại. Trong số cán bộ giám thị có tên cán bộ Chín rất khó khăn, hễ đến phiên làm việc của y không ai lọt được thứ gì! Tên cán bộ Chín được mệnh danh là “Hung Thần”, nên anh em bàn tính nghĩ mưu đổi anh nầy khỏi giám thị cổng. Tù mà đặt kế họach lọai trừ giám thị, tưởng là chuyện viển vông, nhưng sau bàn tính mưu kế bằng cách gửi thư nặc danh theo bưu điện, tố cáo giám thị Chín có hành động tham ô, lợi dụng chức vụ khám xét tù đã tịch thu cất giấu nhiều số tiền của tù “Z”. Chừng 1 tháng sau cán bộ Chín bị đổi ra làm ngòai lô sản xuất. Thế là kế họach lọai trừ “Hung Thần” của chúng tôi thành công. Ngòai ra vẫn còn cán bộ dẫn giải thẳng tay đàn áp, đánh đập thì ngược lại tù cũng có sự chống đối gián tiếp như đa số làm không xong chỉ tiêu, làm gian dối, khai bệnh nhiều, khi làm thì xin hút thuốc, xin đi cầu nhiều lần, giả vờ đau chân, đau tay, đau lưng trong giờ lao động khiến có cán bộ nào khe khắt với tù thì năng xuất lao động kém. Do đó cán bộ cũng họp lại phê bình kiểm thảo, rút kinh nghiệm bằng cách để tù tự chỉ huy nhau và thỏa mãn cải thiện nhiều thì đội sản xuất khá hơn, giữa tù và cai tù đã thông cảm nhau nên năm thứ hai công việc đỡ vất vả mà cũng bớt đói hơn năm đầu, một phần, năm thứ hai các gia đình mới được tin thân nhân mà tới tiếp tế thăm nuôi. Có ngày số thân nhân tới khỏang 100 người, nhà tiếp tân không đủ chỗ ngủ phải ngủ ngòai hàng hiên!


• CÁCH 25 NĂM MỚI GẶP THÂN NHÂN MIỀN BẮC

Sáng ngày 16/10/1978, tôi được tin thông báo có thân nhân Miền Bắc thăm nuôi, được nghỉ lao động để cán bộ đưa ra nhà tiếp tân gặp thân nhân. Ðược tin nầy tôi mừng như được trúng số độc đắc cũng không bằng. Ðang lúc đói và bệnh phù thủng, chẳng khác như nắng hạn mà được mưa rào. Khi cán bộ dẫn tôi ra nhà tiếp tân, thì đằng xa nhà tiếp tân đã có một số thân nhân, đa số là phụ nữ và thiếu nhi, tôi thấy 1 người đàn ông mặc quần đùi áo chemise, người cao lớn giống chú TH. đến 60%. Càng đến gần tôi càng hồi hộp, nghĩ thầm không biết phải chú K. không? Vì tôi xa Hà Nội 25 năm trời, hồi chú K. mới 11 tuổi cho đến bây giờ, chú cũng nhìn tôi đăm đăm cách độ 10m tôi thấy bà dì Ngói từ nhà tiếp tân đi ra đứng sau lưng chú K. như đang nói chuyện gì. Thấy bà dì, tôi xác nhận đúng là chú K. tôi lên tiếng trước “Phải chú K. không?” Chú hỏi lại “Phải anh Tiến không?” (Tên tôi hồi nhỏ trong gia đình) lập tức tôi nắm tay chú và nắm tay dì tôi. Bà dì tôi mếu máo khóc khi thấy tôi gầy ốm tang thương quá! Chú K. cũng khóc mắt đỏ hoe, khiến tôi cũng cảm xúc không cầm giọt lệ. Ba người cùng khóc sụt sịt ngòai sân khiến cán bộ công an phải lên tiếng, bây giờ ba dì cháu cùng vào nhà tiếp tân đã thấy trên bàn dọn sẵn thức ăn. Dì ngói và chú K. ngồi phía bên kia bàn, còn tôi ngồi vào băng ghế phía bên nầy, đằng sau tôi là cán bộ công an ngồi để nghe kiểm sóat lời nói, nhứt là hành động xem có đưa thư từ, tiền bạc gì không. Bây giờ tôi mới để ý, trời lạnh mà sao chú K. mặc quần đùi (quần cụt), thì ra trước khi gặp tôi chú đã được công an kiểm sóat người không cho mang một thứ gì, ngòai quần cụt và áo chemise. Tôi hỏi thăm sinh họat và sức khỏe của cậu, mợ và các em ngòai Hà Nội. Ngòai ra chú K. cũng đã vào Miền Nam gặp vợ con tôi, đã đi thăm mộ mẹ tôi ở Di Linh. Nhắc đến mẹ tôi chú trách, sao ngày mẹ tôi chết không báo tin, để đến giải phóng mới được thư tôi gia đình mới biết mẹ tôi chết mà làm lễ phát tang. Chú K. kể sau một năm mẹ tôi vượt tuyến vào Nam thì chú K. nhạân được thư bưu thiếp của tôi, rồi từ đó biệt tăm tin tức. Tôi kể về cái chết của mẹ tôi và cũng muốn báo tin cho gia đình ngòai Bắc biết, nhưng không có cách nào vì hồi đó hai miền Nam Bắc đã cấm gửi bưu thiếp. Chuyện đến đây thì dì tôi cho biết mẹ tôi được CM phong làm liệt sĩ, có làm lễ truy điệu lớn lắm…

Mặt Trận Tổ Quốc có điều tra cái chết của mẹ tôi là do Mỹ giết, không biết bằng cách nào mà khi chết như người bị trúng gió! Tôi bàng hòang về tin nầyvà bắt đầu nghi ngờ về cái chết đột ngột của mẹ tôi, đang khỏe mạnh béo tốt mà chết trong mấy giờ đồng hồ?

Mải mê nói chuyện mà không để ý đến ăn. Dì tôi phải nhắc đến 2, 3 lần và liên tiếp gắp thức ăn cho tôi, bữa ăn hôm đó có gà luộc, thịt heo kho, canh măng nấu giò heo, giò lụa, bánh chưng, bánh dẻo, bánh nướng vv…

Hơn 3 năm trời nay tôi mới được ăn thật sự là bữa cơm ngon và no không nhúc nhích được! Cảm động nhất là Dì tôi và chú K. đã đi bộ từ bến đò Dùng, cách đây gần 20 cây số, phải mang xách gánh đồ tiếp tế cho tôi trên đường gồ ghề trơn trợt, có nhiều chỗ phải lội tới đùi vì đang mùa mưa bão. Bà vạch đầu gối thấy vết trầy tím bầm vì ngã (té). Bà đã 70 tuổi, tuy béo tốt nhưng rất yếu. Ðã không làm nặng từ 5,6 năm nay, mà hôm nay vì thương cháu phải đi 4,5 ngày đường vất vả, ăn ngủ thất thường nên mắt trũng quầng sâu, rất tội nghiệp! Dì tôi ân cần hỏi tôi về đời sốnh sinh họat và đưa ra những lời khuyên thắm thiết. Lợi dụng chú K. mời thuốc cho công an ngồi phía sau tôi, bà hỏi nhỏ tôi có bị đánh đập gì không? Có cần gì không? Tôi đáp: “có thể Dì cho cháu tiền bằng cách nào chứ họ xét kỹ lắm”. Bà nói: “Tiền có đây mà làm sao giấu được? Vào trại thấy có sao không?” Rồi bà hỏi nhỏ, chú công an nầy có dễ không? Tôi cho bà biết anh nầy dễ nhất trong tóan kiểm sóat. Kế đó Dì tôi qua ngồi kế bên anh CA nói nhỏ gì đó rồi móc túi đưa lén cho anh CA một nắm tiền không rõ bao nhiêu, rồi bà trở lại chỗ tôi nói nhỏ cho biết: “cháu sẽ nhạân ở trong trại được 100$ còn phần CA dì tính rồi. Kế đó đến giờ vào trại, vì qui định 2 tiếng gặp thân nhân mà thôi. Thức ăn tiếp tế cho tôi hôm đó trên 30 kí lô gồm có bánh mì khô, mì gói, kẹo, đường sữa, (bột và họâp) bánh dẻo, bánh nướng, thuốc lá thơm, 1 bịch thuốc Tây (thuốc bổ và thuốc trị bịnh thông thường). Thịt heo kho, thịt gà kho, bánh chưng, xôi, cơm nắm, chuối, cam và 2 quần đùi, 2 áo lót, khăn mặt, bàn chải và kem đánh răng v.v…Tòan là những thứ cần thiết cho tôi lúc bấy giờ. Sau phần kiểm sóat của anh công an tại nhà tiếp tân rồi, tôi ra trước nhà tiếp tân mượn 1 xe cải tiến chất đầy xe đẩy vào đến cổng trại, lại mở ra cho ban giám thị cổng kiểm sóat lần nữa. Kiểm lần nầy tôi bị bỏ lại lọ ớt bột, gói tỏi, gói café, gói trà, những thứ nầy cấm, mặc dù nhà bếp có cho ăn ớt, hàng ngày có cả nước trà (trà vụn nát của lô trà). Trưa hôm đó tôi mời khỏang 30 bạn thân ra hội trường ăn mừng ngày gặp gỡ họ hàng Miền Bắc của tôi. Ai cũng chúc mừng tôi. Tối hôm đó tôi mời tòan thể buồng tôi uống sữa, ăn bánh kẹo và hút thuốc lá, thuốc lào rất là vui vẻ!!!

Chiều hôm sau anh Thượng Sĩ Công An trưởng ban giáo dục, đã được Dì tôi gửi tiền cho tôi ở phòng tiếp tân, anh nầy vào trại gọi lớn tên tôi, tay có cầm lá đơn tôi xin lại đồ tư trang gửi để đưa gia đình đến thăm nuôi tiếp tế tới, anh cho biết đơn đã thuận, nhưng đợi kỳ thăm nuôi tới sẽ trả lại gồm có: Ðồng hồ, cà rá, kính và viết máy. Còn quần áo dân sự thì không được. Nói tới đây anh liếc mắt không thấy ai đứng gần tôi (đứng ở sân) anh mới nói nhỏ, có tiền bà Dì anh gửi cho anh đây, nhưng làm sao được, anh em thấy thì sao? Thôi để mai anh đi làm lao động tôi sẽ tìm cách đưa cho anh. Tôi đã dự trù trước trường hợp nầy nên đưa ý kiến “để tôi giả đò vào buồng lấy giấy chứng nhận gửi đồ tư trang để cán bộ xem, kèm với cuốn tập, cán bộ xem rồi kèm tiền trong cuốn tập trả lại tôi thì không ai biết”, anh đồng ý liền. Tôi vào buồng lấy cuốn tập và giấy chứng nhận gửi đồ tư trang. Tôi vào cầm ra liền, anh lấy làm ngạc nhiên hỏi tôi: “Bộ anh biết trước tôi vào hỏi anh về việc nầy hay sao mà có sẵn vậy? Tôi đáp: “Cũng ước đóan, cán bộ là người có uy tín thế nào cũng gặp tôi để đưa tiền nên tôi dự trù sẵn để cán bộ khỏi mất thì giờ, mà lại kín đáo nữa.” Anh cầm giấy và tập của tôi rồi nói lớn như cố ý cho nhiều người nghe “Ðựoc anh để tôi mượn hồ sơ nầy về đọ trong sổ xem có đúng không rồi trả lại anh”. Sau độ chừng 15 phút anh lại vào đưa cho tôi cuốn tập cũng ở sân, nhưng lúc nầy vắng không có ai ở gần vì ai cũng mắc dọn ăn, anh nói nhỏ với tôi “Tiền để trong tập, giấu kỹ đừng để ai biết, nhất là cán bộ khác mà bắt được thì chớ có nói tới tôi, nghe chưa” –Cán bộ yên tâm, gia đình chúng tôi còn nhờ cán bộ nhiều lần, tôi đâu nỡ để ân nhân của tôi phải lụy vì tôi. Nói ví dụ nếu có xảy ra bị bắt, tôi sẽ nói là gia đình tôi giấu trong đồ tiếp tế gửi cho tôi. Như vậy cán bộ yên tâm chưa? “Anh vỗ vai tôi khen “Mưu cao, mưu cao, sĩ quan kế họach tham mưu có khác!” Ðến tối không còn ai thức, tôi mới giở cuốn tập thì chỉ có 1 tờ giấy 50$ đỏ. Hồi sáng dì tôi có cho tôi biết sẽ gửi cho tôi 100$ kia mà. Thôi được có còn hơn không. 50$ nầy đối với tôi lúc đó là có thể no được 1 tuần lễ. Thế rồi công việc lao động hằng ngày vẫn tiếp diễn. Ðội tôi được điều qua lô quản giáo Ðức, thu họach đậu phộng và bắp được mấy tháng lại trở lại lô mía của cán bộ Thục.

Một tháng sau lô nầy cần hai người biết lái xe trâu. Tôi và anh B. tình nguyện làm. Từ đó tôi được mệnh danh “Tài xế xe bò lốp”. Ði xe trâu chuyển vận mía từ ruộng vào lô ép nấu mật, khi ra thì chở bã mía vào chuồng trâu làm phân bón, hễ lò cần chở thứ gì thì có xe trâu 2 đứa tôi. Lúc đầu xe đi đâu ngòai lô đều có vệ binh đi kèm, sau thỉnh thỏang mới có, chở xa nhứt là vào Thanh Chương để chở củi từ nhà dân cách trại khỏang 3 km, chuyến đầu có quản giáo đi theo chỉ chỗ vào nhà dân lấy củi (dân bán, đổi mật rượu). Còn những chuyến sau, thỉnh thỏang quản giáo Thục mới đi xe đạp ngang qua kiểm sóat thình lình xem hai đứa tôi có vi phạm gì không? Có quan hệ với dân mua bán đổi chác gì không? Có khi bất chợt cán bộ quản giáo hoặc vệ binh khám xét chúng tôi thấy không vi phạm nên uy tín cao, để chúng tôi đi về tự do, công việc hòan tất rất chu đáo! Từ đó hai đứa tôi tha hồ mua bán hàng với dân, đổi quần áo, đồ đạc của anh em gửi đổi lấy thực phẩm mang vào trại cho anh em mà cũng không bị kiểm sóat vì chúng tôi đã có uy tín, nhờ vậy nên tối nào tôi cũng mang mật và thực phẩm như thịt, xôi, bánh tét, bánh ích, thuốc hút đủ mọi thứ theo nhu cầu của anh em trong trại nhờ mua hoặc đổi chác nên tình trạng đói trong trại đã giảm hẳn. Mấy bà bán hàng cho cải tạo Z hàng ngày ở ngòai chỗ lao động đã thương lượng với vệ binh dễ tính, mấy anh hút thuốc lá khỏi trả tiền và chỉ bán cho tù Z mà thôi, còn tù hình sự cũng làm những ruộng riêng biệt thì các bà không dám bán vì đã bị giật mất đồ mấy lần rồi! Tù Z được no mà được tiếng với dân là đàng hòang, rộng rãi, nhất là uy tín xe trâu của 2 đứa chúng tôi lên đến cao độ. Có khi các bà bán chịu cho tù Z cả gánh hàng, chỉ cần nói để anh Ð. đi xe trâu trả sau, là mua bao nhiên cũng bán, còn nài ép ăn cho hết gánh. Cả đội ăn hút tại ruộng, sau tối về trại anh em tự động gặp tôi đóng tiền trả sòng phẳng, có anh không còn tiền thì trả bằng đồ, bằng quần áo dân sự theo giá qui định của các bà!



• THUỐC TIÊN CỦA BÁC SĨ CẢI TẠO

Dân ở Thanh Chương Nghệ Tĩnh bắt đầu có cảm tình với chúng tôi, hễ gia đình nào có người bệnh là tôi cho thuốc, dặn dò cách thức vệ sinh. Ða số đồng bào bị bệnh tiêu chảy, kiết lỵ, cảm sốt, nhức đầu, đau mắt vv…Hể mỗi lần xe trâu tôi vào chở củi là đồng bào bồng bế nhau ra tôi khai bệnh, xin thuốc. Có khi đông 3, 4 chục người. Thuốc thì tôi xin của anh em trong trại được gia đình thăm nuôi gửi cho. Anh em thấy tôi thực hiên chương trình y tế từ thiện nên có nhiều anh em đóng góp thuốc. Ða số thuốc uống ngọai nhập, nên lúc nào trong người tôi cũng có túi thuốc đủ lọai. Có đồng bào trả tiền thuốc, hay cho gạo, cho bắp, khoai chín …Tôi không bao giờ nhận, nên tình cảm dân chúng đối với chúng tôi khác với năm đầu 1978 cho đến nay 1980. Trước đồng bào còn có thành kiến chúng tôi là giặc là phản quốc, hãm hiếp phụ nữ, giết chóc đồng bào, ăn gan uống mật người... theo như đã học tập trước kia, bây giờ thấy các anh tử tế quá! Có khi trò chuyện với đồng bào họ đã ước mong khi chúng tôi được trả tự do xin tới ở với chúng tôi, làm giáo viên, thầy thuốc cho đồng bào là có lương tiêu chuẩn cao.

Ðời sống dân quá thấp. Ruộng lúa thì làm cho hợp tác xã tính điểm hưởng lúa, nhà nào cũng thiếu gạo ăn, phải tăng gia thêm rẫy bắp, khoai mì, khoai lang để ăn kèm theo mới đủ sống! Thành ra nhà nào cũng đi lao động tăng gia sản xuất, ở nhà chỉ còn trẻ nít với người già hoặc người bệnh không thể lao động được. Ðồng bào nhờ tôi đến từng nhà để khám bịnh, tôi đã chứng kiến 1 gia đình 4 người gồm hai vợ chồng đi làm từ sáng đến tối, để 2 đứa con nhỏ, đứa chị 6 tuổi, đứa em 2 tuổi đi chập chững trong nhà với nồi khoai luộc sẵn và lu nước uống, cứt đái đứa nhỏ ỉa lênh láng ra nhà với khoai ăn bỏ dở trên nền đất…Tôi cầm lòng không đặng phải vào dọn sạch sẽ, tắm rửa cho hai đứa nhỏ, cho uống thuốc tiêu chảy cho đứa em và đứa chị thì bị kiết đàm có máu! Có gia đình bà già mắt sưng mủ không thấy đường ẵm đứa cháu gầy ốm đang bị bệnh ban sởi, khóc suốt ngày, hai đứa con trai và dâu đi làm ruộng, sáng đi tối về. Tôi phải để anh bạn đi xe trâu 1 mình để tôi ở lại nấu nước sôi rửa mắt nhỏ thuốc, bôi thuốc Pomade Penicilline cho bà già, còn đứa nhỏ cho uống thuốc pha trụ sinh Tyfomycine, được cái là tôi mát tay, cho thuốc ai thì người đó khỏi, nên được mênh danh là “Thuốc tiên của Bác sĩ cải tạo” do đồng bào địa phương đặt danh! Chúng tôi nuôi hòai bão là đối xử tử tế và đạo đức với đồng bào, từ thiện bất vụ lợi để đồng bào thấy chúng tôi không phải quân Ngụy tàn ác dã man, tra tấn, kềm kẹp, ăn gan uống mật đồng bào miền Nam như đã học tập tuyên truyền. Chúng tôi như đã cùng tâm nguyện nên đã truyền cảm cho nhau hành động, đối đãi với đồng bào Miền Bắc để đồng bào thấy rõ sự thật mà so sánh, bớt thù hận, bớt hằn học với chúng tôi như lúc đầu, thì chuỗi ngày tàn dư còn lại của tuổi đời gần xế bóng, thiết tưởng cũng không hẳn là vô vị!!!

Các trại cải tạo Z ở Miền Bắc mấy năm qua đã gây được cảm tình với đồng bào, đi đâu cũng được mời trà nước, cũng có nồi khoai, rổ bắp chín để dành cho mấy anh, không còn tiếng trẻ gọi nhau xem tù binh, không còn anh chị em công nhân mai mỉa: “Ai biểu tàn ác cho lắm, bây giờ đáng đời!?” Hồi chúng tôi ở Hoàng Liên Sơn, tuần lễ nào cũng phải lấy gạo ở kho về cho trại, cách xa hơn 10 km, phải đi từ 5 giờ sáng đến 6, 7 giờ chiều mới về đến trại, có tuần 3 lần không chừng, mỗi người chúng tôi đi lãnh gạo mang 20 ký lô. Mỗi người phải mang theo 1 cái quần tây dài để đựng gạo bằng 2 ống quần buộc túm ống để quàng lên cổ mà đi, qua chợ, qua trường học, hễ ngừng nghỉ nơi nào thì ca hát nhạc xanh, nhạc vàng, nhạc Mỹ, nhạc Pháp… Hễ có người hỏi tụi tôi trả lời là nhạc Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan vv…

Mới đầu không có nhạc cụ, chúng tôi phải xử dụng thau, thúng, cả đờn miệng. Cũng có 2, 3 bè, cũng đệm, tếu, dân chúng bu đen nghẹt, có trường học cô giáo cũng cho học sinh nghỉ học để ra nghe, rồi những chuyến sau chúng tôi đến là các cô giáo đã tự động cho học sinh mang thuốc Lào, điếu cầy, nước trà, có khi rổ khoai luộc để “chiêu đãi” chúng tôi. Lần nầy các cô giáo đã mượn sẵn đàn ghi-ta, (Guitare) đờn măn-đô-lin (mandoline) để chúng tôi khỏi đờn miệng. Sợ tối về không kịp, các anh vệ binh hối thúc chúng tôi đi, cũng bị các cô giáo trì kéo ở lại ca thêm vài bản nữa. Tốp ca, tốp kể chuyện Chưởng, trong lớp học có anh vệ binh dẫn giải chúng tôi mải nghe quên giờ về trại, đến sẩm tối mới hay, hối hả nhau về tối mịt, trại phải đốt đuốc đi đón chúng tôi. Sau nghe kể lại các bộ đội dẫn giải bị phê bình kiểm thảo. Chuyến lấy gạo sau, trước khi đi thủ trưởng phải dặn các vệ binh không cho nghỉ chỗ đông người, nhất là ở trường học, cấm cả chúng tôi ca hát, kể chuyện. Khi chúng tôi đi tới trường học, vệ binh cho lệnh đi luôn không cho nghỉ tại đây. Các cô giáo cũng săn đón “nhõng nhẽo” với các vệ binh, nên cũng xuôi lòng để chúng tôi nghỉ 30 phút, cũng lại ca hát. Cũng kể chuyện tiếp theo lần trước. Lần nầy các vệ binh không dám ngồi nghe, phải đứng xa gác, canh chừng báo động khi có tóan kiểm sóat quân sự đến! Tết Nguyên Ðán năm đó, gần 20 cô đến thăm trại chúng tôi, chúc tết, cho bánh chưng và mật cho chúng tôi và yêu cầu Trưởng trại cho gặp chúng tôi như thân nhân thăm nuôi! Cũng tổ chức ca hát đến chiều các cô mới về!!

Trại 6 Nghệ Tĩnh, Lô nào cũng có xe trâu. Từ trước đến nay đi xe trâu chỉ có tù hình sự, ngọai trừ Lô Mía của cán bộ Thục là có 2 tù Z chúng tôi được lái xe trâu, được thong thả như tù hình sự, vì chở mía mật, rượu nhập kho mà để tù hình sự chở thì có sự gian lận, không ăn cắp cũng giấu bớt, nên cán bộ Thục đề nghị trại cho 2 tù Z phụ trách xe trâu, quả nhiên vì bảo vệ danh dự và uy tín của Z nên chúng tôi không vi phạm. Có một chuyện ăn cắp của tù hình sự với chúng tôi:

Hôm đó xe trâu chúng tôi được lệnh chở lục bình (bèo Nhật Bản) ở bờ hồ về bỏ vào chuồng phân trâu. Anh B dẫn trâu đi ăn, còn tôi dùng bồ cào móc lục bình lên xe. Càng xe trâu tôi có treo một ga-men thịt heo kho khoảng 1 ký lô, nhờ dân mua kho dùm, có nắp đậy cột ràng cẩn thận. Tôi làm ở gần đó, chỉ có 2 tù hình sự đi ngang qua, chúng còn trẻ nên đứa nào cũng chào tôi bằng bố, cho con xin bi thuốc lào, lần nào tôi cũng cho, hôm nào cũng hết hộp thuốc lào. Có đứa thèm qúa đón xe tôi xin thuốc hút, một trong 2 đứa thấy sô nhôm treo càng xe nên hỏi tôi “Bố, sô gì đấy bố? Cho con tham gia tí?!” “Không được, của mấy chú mầy gửi tao đó!” Rồi hai đứa đi, Một lúc sau có một đứa đứng xa gọi tôi: “Bố nghỉ tay, đến chỗ con hút thuốc lào đã”. Tôi đáp: “Hút rồi, mắc làm cho xong kẻo về trễ giờ!”. Trong khi đứa léo nhéo hỏi tôi ở xa, còn đứa kia bò dọc bờ hồ phía sau tôi lấy sô thịt giấu vào chỗ nào gần đó mà tôi không biết. Khi chợt nhớ tôi quay lại đã mất sô thịt mà thằng lấy đi cách tôi 10m. Tôi chạy lại túm áo nó thì nó kêu như oan uổng, chứng cớ đâu mà bắt tội nó, thấy đuối lý tôi buông tha nó thì anh B dẫn trâu về, tôi thuật chuyện mất sô thịt không đầy một phút, nó lấy trước mắt mình mà không bắt được, đoán nó giấu quanh đó thôi. Hai đứa tôi tìm kiếm từng bụi cỏ, đạp nát bờ lục bình mà cũng không thấy. Tức vì thua trí bọn lưu manh nầy nên tôi lập mưu bắt chúng: Hai đứa tôi lên xe đi một quãng khuất, rồi để anh B tiếp tục lái xe trâu về chuồng, còn tôi nhảy xuống núp mình bò gần tới chỗ cũ, nép trong bụi cây phục kích, chừng 10 phút sau 2 đứa tù hình sự đó trở lại phía chỗ xe vừa rồi, mắt nhìn dáo dác rồi bước xuống hồ nước moi lên sô thịt, nó giấu vào chỗ mình kông ngờ là nhận xuống bùn nước mà mình cứ tìm kiếm chỗ khô, chỗ bụi cây thì làm sao thấy? Ðợi chúng rửa ngòai sô sạch sẽ cầm sô ở tay đàng hòang, tôi mới chạy đến nắm cổ thằng cầm sô thịt, còn thằng kia thì bỏ chạy, thằng nầy chắp tay lạy van xin vì sợ tôi đánh, nhưng tôi không đánh chỉ dọa mách đội trưởng nó là nó cuống quýt năn nỉ, lạy tôi như tế sao. Tôi biết chúng sợ đội trưởng lắm. Ðội trưởng hình sự mà đánh tù hình sự thì dã man vô cùng. Ðánh, đấm, đá, đạp là tội nhẹ, còn tội nặng thì lấy gậy thọc vào ngực, đánh vào đầu, mình, gẫy cây là thường. Càng tránh né, càng khóc la, là còn đánh. Ðánh chết tù hình sự là chuyện thường ngày. Cán bộ trại chỉ ghi vào sổ tù đánh lộn chết là đem chôn với manh chiếu là xong!

***


• MỘT TRẬN BÃO LỤT CÁCH 80 MƯƠI NĂM MỚI CÓ

Tháng 9 năm 1979 mưa bão liên tiếp, trại tôi phải nghỉ lao động, học tập chính trị cả tuần lễ, mưa nước tràn ngập đường đi. Buổi trưa hôm đó đang nhận cơm thì kẻng và loa phóng thanh báo động gọi tất cả mọi người trong trại phải đem đồ ra tập họp khẩn cấp vì nước lũ dâng cao. Chúng tôi không kịp ăn đã vội vàng mang hành lý ra tập họp. Bắt đầu kẻng báo động thì nước ở sân trại mới ngập tới mắt cá chân, khi chúng tôi lấy hành lý ra tập họp cách chừng 15 phút sau nước đã tràn ngập tới đùi, nghĩa là cả nửa thước nước dâng lên trong vòng 15 phút. Tất cả mọi người phải nắm giây giăng từ trong trại tới ngọn đồi cách trại khỏang 1 km, có chỗ nước chảy xiết không qua dược khiến cán bộ trại phải đứng móc tay vào nhau thành hàng ngang làm hàng rào ngăn nước để chúng tôi lần theo giây qua chỗ nước chảy, có anh chịu không nổi phải bỏ trôi hành lý mà bám lấy giây đi qua. Chúng tôi lên được tới đỉnh đồi là 4 giờ chiều, nhìn xuống trại chỉ thấy mái nhà còn tường bao quanh trại cũng ngập nước luôn. Xung quanh nhà cửa đồ đạc heo, bò, trâu gia súc trôi theo dòng nước không biết là bao nhiêu! Sáng hôm sau chúng tôi được biết nước lũ dâng là do bể đê Nam Ðàn. Theo dân kể lại thì năm nay lụt lớn bằng trận bão lụt 80 năm trước. Tài sản, hoa màu, ruộng rẫy và gia súc bị thiệt hại tới 96%, còn người chết trôi mất tích khỏang trên 100 người. Ðài phát thanh, báo chí kêu gọi cả thế giới cứu trợ đồng bào Nghệ Tĩnh bị bão lụt. Ðọc báo thấy nhiều nước gửi đồ cứu trợ lên tới cả trăm ngàn tấn thực phẩm, quần áo, thuốc men, mà dân Nghệ Tĩnh và chúng tôi không được gì !! Sau nghe đồng bào kể mỗi hộ bị bão lụt phải đi tới Huyện mới được lãnh 3 ký lô bo bo, nhiều người ở xa Huyện nên bỏ không lãnh. Ðồ nước ngòai gửi cho đều có in chữ Anh “Tặng phẩm của Hội Ðồng Kinh Tế Châu Âu” thì bày bán các nơi. Gia đình chúng tôi thăm nuôi tiếp tế nhờ mua những thực phẩm hộp cứu trợ cho đồng bào bị bão lụt, nhất là mỡ thực vật (magarine) bơ, và sữa bột, đồng bào miền Bắc không ăn quen, chê ăn bị tiêu chảy nên không ai mua. Số đồ hộp nầy tới 3 năm sau tôi được tha về cũng thấy còn bày bán ở cửa ga xe lửa!

Tháng 10 năm 1979 tôi lại được gọi lên phòng tiếp tân có người nhà thăm nuôi. Lần nầy có mợ B. Dì Ngói và chú K. đều ở Hà Nội đi thăm tôi. Mợ B. thấy tôi mắt mợ đỏ hoe, khóc vì xúc động khi gặp tôi. Cách xa mợ B. 25 năm mà tôi thấy mợ già hẳn, tuổi mợ năm đó mới ngòai 50 tuổi, có lẽ vì gian khổ nên mợ già trước tuổi. Sau khi thăm hỏi gia đình ngòai Bắc, tôi được mợ cho biết chỉ có em Tùng đi bộ đội đã hy sinh năm 1968 mà đến năm 1975 (giải phóng rồi) mới được tin em Tùng chết, lúc đó gia đình mới làm lễ phát tang! Ðang nói chuyện tới đây thì có anh công an lại gọi tôi đi theo anh lãnh đồ tư trang để đưa cho gia đình thăm nuôi theo như trong đơn xin lần trước đã được Trung Tá Thưởng thủ trưởng phê “Thuận trả lại khi có người nhà thăm nuôi”. Tôi được anh công an nầy dẫn lên kho lục sổ ký nhận đủ cả 4, 5 sổ mà chưa thấy đồ đâu? Tôi cố ý ngần ngừ đợi thấy đồ mới ký thì anh công an có vẻ không bằng lòng vì anh cho tôi biết thủ tục hành chánh ở đây ký nhạân rồi lấy phiếu lên kho Bộ Chỉ Huy mà nhận đồ. Tôi hỏi lên kho ngộ đồ tôi bị mất, hư hoặc bị đổi thứ giả tôi có quyền khiếu nại không? Anh tỏ vẽ giận dữ nói: “Cách Mạng đâu có làm ăn lừa đảo như tổ chức của các anh” Tôi phải xin lỗi vì quen làm việc theo thủ tục hành chánh chế độ cũ, nghĩa là nhận đồ đầy đủ mới ký sổ sau. Tới kho lục cả nữa giờ mới thấy bọc đồ của tôi. Thủ kho cất giữ không thứ tự, không bảng tên nên gói nào cũng mở coi. Gói đồ của tôi gồm có: 1 đồng hồ Orient (người nhái) 1 nhẫn vàng 24 (2 chỉ) 1 kính mát ZO gọng vàng, 1 bút cross, còn quần áo dân sự thì không được nhận vì trận bão lụt vừa qua bị ngập ướt đang sọan phơi chưa kịp!? Trong thư trước gửi chú K. tôi đã hứa biếu dì tôi chiếc nhẫn còn chú K thì đồng hồ, kính và bút cross, nay đi thăm nuôi tôi có cả mợ B nên dự trù của tôi là lãnh quần áo dân sự 3 bộ biếu mợ cho các em mặc, mà nay không lãnh quần áo được nên tôi phải gửi tiền 20 đô la Mỹ kim giấu chôn trong ruột bút đưa cho dì Ngói đang khi công an không để ý, tôi định nói với dì, tôi gửi về cho gia đình tôi đổi thành tiền VN, biếu tiền nầy cho cậu mợ B. Tôi mới nói “Ðưa cho vợ cháu” thì anh công an quay lại hỏi tôi “Anh mới nói gì đó? Chiếc nhẫn đâu?“ Anh công an nầy tưởng tôi giấu chiếc nhẫn lại nên định xét người tôi, dì tôi thấy vậy mới lấy trong túi ra chìa cho anh CA thấy mới chịu yên, nhưng anh bị quê nên gỡ lại tôi, hỏi tôi: “Anh mới nói nhỏ với bà già cái gì đó?” Tôi cười đáp: “Tại cán bộ đứng xa lại quay lưng lại nên tưởng tôi nói nhỏ, chứ hơn 25 năm xa cách gia đình miền Bắc thì có gì phải nói nhỏ” Thấy hơi căng giữa anh CA và tôi, Dì tôi lấy 1 tờ giấy đánh máy có mộc đỏ đưa cho anh công an nầy xem, thì ra dì tôi cũng là công nhân viên nhà nước, nay đã nghỉ hưu trí. Sau khi xem giấy nầy thì anh CA bớt căng với tôi, nhưng cũng bắt tôi ngồi xa ra mà nói chuyện, còn anh ngồi sát sau lưng tôi để kiểm sóat. Thăm nuôi kỳ nầy cũng ăn cơm ở nhà tiếp tân 1 bữa và thực phẩm gửi cho tôi được chất lên xe cải tiến, nhưng lần nầy tôi thấy kém vui vì sự căng thẳng của anh CA kiểm sóat nầy. Lần nầy bắt bỏ bớt thực phẩm không cho nhận đến 1 bao khỏang 10 ký. Dì tôi năn nỉ cũng không cho nhận vì anh “sùng tôi” khi lãnh đồ ở kho ngần ngừ không chịu ký ngay. Ra về anh dẫn tôi tới cổng trại ra lệnh cho 1 tù hình sự kiểm sóat người tôi, bắt tôi cởi hết đồ trong người chỉ còn mặc quần đùi, nắn từng gấu quần, từng ve áo, mà trời đang mùa lạnh bắt tôi phải ở trần đợi kiểm sóat khỏang nửa giờ, anh công an như cố ý hành hạ tôi cho bõ ghét! Kỳ thăm nuôi nầy tôi chỉ gặp gia đình khỏang nữa giờ đủ ăn bữa cơm trưa là anh công an hối thúc về, vì qui định 2 giờ thì mất hơn 1 giờ lên kho lãnh đồ tư trang. Khi được thăm nuôi, tôi đã dự định hỏi dì tôi về ông Trung Tá Quyết ở Nông Trường Trà Trần Phú Tỉnh Hòang Liên Sơn là ai? Nhưng lu bu tôi cũng quên hỏi, cho đến bây giờ tôi cũng chưa biết Trung Tá Quyết là ai? Chỉ có Dì và cậu B tôi, đầu mối hỏi mà tôi đã bỏ lỡ dịp nên tôi cứ ân hận mãi!!

• CHẾ ÐỘ NÀO CŨNG CÓ!

Thế rồi công việc “tài xế xe bò lốp” của tôi vẫn tiếp tục. Có hôm tôi chở khoai mì nhập kho, xe tôi chở đi ngòai đường ngang chòi canh gác trại thì có tiếng anh CA gác hỏi ”Xe khoai mì chở đi đâu?” Tôi đáp, “xe của lô cán bộ Thục chở khoai mì nhập kho” Anh nói “Cho tôi một giỏ khoai mì nghe” Tôi nói xin cán bộ hỏi cán bộ Thục vì ông dặn tôi không được cho ai. Anh CA nầy gắt với tôi “xin một giỏ khoai mì mà khó vậy?” Lập tức có một tù hình sự tay xách giỏ (30 ký) tới xe tôi hốt tràn ngập giỏ rớt xuống đất mà chưa chịu thôi, tôi phải lên tiếng “Thôi, nhiều rồi”. Tên hình sự nầy mới chịu thôi. Khi xe tôi nhập kho về mang sổ nhập kho báo cáo cán bộ Thục, ông hỏi tôi sao chở ít vậy? Tôi phải kể chuyện CA ở chòi canh xin 1 giỏ. Cán bộ Thục la tôi “Sao tôi dặn anh không được cho ai cơ mà.” Tôi có nói cán bộ (Thục) dặn tôi như vậy mà anh CA cứ bảo tù hình sự leo lên xe hốt, tôi không biết nói sao! Vì nội qui phải nghe lệnh cán bộ, mà cán bộ nào cũng là cán bộ cả. Lập tức cán bộ Thục hầm hầm xách xe đạp đi …Hôm sau tôi gặp anh CA xin khoai mì hôm qua, chặn xe lại chỉ mặt tôi hỏi: “Sao anh báo cáo cán bộ Thục? (Cán bộ Thục là Trung Úy còn anh CA nầy là hạ sĩ) về tôi xin giỏ khoai mì? Tôi nói, vì trong sổ nhập kho thấy ít hơn mấy chục ký, nên cán bộ Thục hỏi tôi thì tôi phải chứng minh vì sao ít, vả lại tôi tưởng cán bộ cũng có quyền như cán bộ Thục. Anh ta đuối lý chỉ mặt tôi nói “Bận sau bép xép cái miệng thì liệu hồn, có ngày mặt sưng lên!”. Tôi đánh xe đi, kệ “tránh voi không xấu mặt nào”!


• LÀM THEO NĂNG XUẤT HƯỞNG THEO TIÊU CHUẨN

Kế đó trại phát động phong trào “Làm theo năng xuất hưởng theo tiêu chuẩn”. Ðội nào cũng chia làm 3 lọai lao động, chỉ tiêu cao nhất được hưởng ăn tiêu chuẩn 18 ký/tháng. Loại lao động đạt chỉ tiêu trung bình, được hưởng tiêu chuẩn 15 ký, còn lại ăn theo tiêu chuẩn 12 ký. Ðội nào cũng có gần 10 người khỏe lao động được ăn thau lớn nhất (18 ký). Khỏang 20 người lao động trung bình ăn thau nhì (15 ký) Còn khỏang nửa Ðội ăn thau ít nhất (12 ký). Ðến bữa ăn có cán bộ phụ trách bếp đứng chỉ huy chia thau ăn theo 3 chế độ tiêu chuẩn, và đội nào cũng lãnh 3 lọai. Ðội trưởng đọc danh sách do cán bộ quản giáo chấm ăn theo tiêu chuẩn 3 lọai cho từng người, ai lọai nào ra thau ấy mà chia nhau ăn. Tôi cũng được chấm tiêu chuẩn cao (18 ký) Thấy trại lấy miếng ăn để chia rẽ chúng tôi, tôi đề nghị đổ chung 3 loại rồi chia đều tòan đội, nếu ai không chịu xin lấy theo tiêu chuẩn mà ăn, còn tôi sẽ ăn theo đa số anh em. Tất cả anh em trong đọâi đều “nhất trí” với tôi. Và tòan trại, đội nào cũng làm như vậy nên phong trào “Làm theo năng xuất, hưởng theo tiêu chuẩn” không thành công. Trại thấy kế họach “Lấy ăn làm mồi nhử lao động” bị thất bại, các quản giáo cũng như các vệ binh được lệnh “không cho chúng tôi cải thiện nữa”, đồng thời, hai đứa “xe bò lốp” chúng tôi là nguồn tiếp tế cải thiện duy nhất của trại cũng phải ra tóan lao động sản xuất. Hai tù hình sự thay thế xe bò lốp.

Chúng tôi lại cuốc làm chuẩn như đa số anh em. Ðược hai ba ngày ma đói hành hạ anh em chúng tôi, nên làm mía bẻ mía, làm khoai đào củ ăn sống, nghĩa là làm cái gì ăn được là lén lút ăn. Ðến nỗi cuốc đất cũng bắt cóc, bắt nhái, bắt rắn nướng ăn. Vệ binh la hét đánh cả chúng tôi mà hồi trước cấm, nếu phạm lần đầu về đội làm tờ kiểm điểm, lần thứ hai vi phạm nhốt vào nhà kỷ luật. Tối sinh họat trại nhiều anh em đưa lý do vi phạm nhiều vì qúa đói, yêu cầu trại cho cải thiện thêm để bớt vi phạm, cũng yêu cầu đừng đánh tù Z chúng tôi như tù hình sự, nếu có vi phạm tập thể xây dựng và đề nghị biện pháp kỷ luật vv… ghi vào biên bản đội hàng tuần, trong biên bản ghi rõ từng tên người, nêu ý kiến và được tập thể nhất trí. Biên bản trình Trại, thì được trả lời “Nếu muốn khỏi bị đối xử đánh đập thì phải khắc phục tuân theo nội qui. Tù Z và tù hình sự nếu vi phạm nội qui đều bị xử lý như nhau” Trại vẫn áp dụng phương pháp đàn áp để dẹp phong trào chống đối 3 tiêu chuẩn lao động. Ngày nào cũng có tù Z tiếp tục bị đánh, đã có anh định đánh lại, Vệ binh đã phải lên đạn bắn chỉ thiên và sau đó anh nầy bị nhốt vào nhà kỷ luật. Ngòai trại thì vệ binh và quản giáo đàn áp. Trong trại cán bộ giám thị ruồng xét gắt gao, trong số đó có cán bộ Lý còn hơn cán bộ Chín, Cán bộ Chín được gọi là “hung thần” còn cán bộ Lý thường leo lên chỗ song cửa rình anh em nào nấu nướng là mở cửa nhẹ nhàng nhảy vào bắt quả tang, tịch thu sạch sẽ. Cán bộ Lý kiểm sóat cổng cũng như tuần tra trại, hễ có Lý là có tịch thu. Cất giấu, canh phòng mánh lới nào cũng không thóat khỏi anh ta, nên được biệt danh là “Ma Cà Rồng” do đó các “Quân sư Bộ tham mưu” chúng tôi lại họp bàn kế họach lọai trừ con “Ma” nầy bằng cách gửi thư tay tù hình sự được tha về, nhờ bỏ thùng thư ngòai trại, vì biết chắc những thùng thư của dân xung quanh vùng trại tôi đều được kiểm duyệt, nội dung nhắn bà xã có thăm nuôi kỳ nầy nhớ gửi tiền cho cán bộ Lý là Giám thị cổng, kiếm gặp tại nhà riêng mà gửi, tuy có tốn kém chút đỉnh nhưng chắc chắn không sợ mất, ở đây có nhiều anh em được cán bộ Lý giúp rồi. Nhớ phải kín đáo đừng để ai biết mà các anh hết nhờ cậy. Thật tình đâu có chuyện như thế nầy, mà “quân sư” chúng tôi đặt ra “ly gián kế” để bài trừ “Con Ma Cà Rồng”. Qủa nhiên chừng 1 tháng sau, tên cán bộ Lý bị đổi đi trại khác. Thế là kế họach bài trừ “Ma Cà Rồng” của chúng tôi thành công! Kế đó mỗi ngày mỗi nghe anh nọ bị đánh về bẻ mía, anh kia bị đá vì đào khoai và thái độ của anh em chỉ phản đối tiêu cực. Ai cũng sợ bị trả thù. Tôi suy nghĩ định làm vật hy sinh nếu tôi bị đánh hay thấy anh em bị đánh tôi sẽ cướp súng đổi mạng, hoặc bổ một cuốc hay một dao vào thằng vệ binh nào ác nhất để lãnh viên đạn, lấy cái chết thân mình để làm đà cảnh tỉnh anh em theo, nếu không thì sự đàn áp cũng bớt được phần nào… Ðịnh bụng như vậy nến quyết tâm lấy cái chết để vãn hồi danh dự cho tóan trí thức “Úy tử tham sanh” nầy! Tuần đó lại sinh họat đội, Ðội trưởng được yêu cầu của cán bộ quản giáo làm sao tập thể xây dựng cho đừng vi phạm.

Nhiều anh phát biểu ý kiến như năn nỉ trại nới tay cho cải thiện vì quá đói, đồng thời yêu cầu vệ binh không nên đối xử với cải tạo Z như là tù hình sự vậy v.v… Lần nầy tôi xin phát biểu ý kiến và yêu cầu thư ký ghi nguyên văn lời tôi phát biểu vào biên bản. Tôi nêu thời gian trước trại chưa phát động phong trào “Làm theo năng xuất hưởng theo tiêu chuẩn” thì không khí lao động, năng xuất lao động, kỷ luật lao động đều tốt đẹp hơn hiện tại, ít người vi phạm nội qui, cán bộ dẫn giải không đánh tù Z bao giờ. Từ sau ngày phát động phong trào và phân chia 3 tiêu chuẩn là bắt đầu khí thế lao động đi xuống, bắt đầu đói không cho cải thiện mới nẩy sinh vi phạm nội qui vì quá đói “Ðói thì Thánh cũng thành bần tiện” 3 tiêu chuẩn mà chúng tôi không chịu chia rẽ vì miếng ăn, vì chúng tôi là thành phần trí thức không để bị miếng ăn chi phối ! Trại lại tưởng chúng tôi chống đối phong trào, kế họach trại đề ra mà mục đích của trrại là muốn động viên năng xuất lao động để tăng lên, trại thấy không hiệu nghiệm lại tưởng chúng tôi chống đối nên cấm cải thiện, đàn áp chúng tôi bằng hình thức như tù hình sự. Hôm nay chúng tôi sinh họat và nhất trí yêu cầu trại vãn hồi lại nếp sống lao động như trước là cho chúng tôi bớt mỗi đội 1 người cải thiện mỗi tuần 2 lần, người nầy chúng tôi sẽ tăng chỉ tiêu, như vậy trại vẫn không mất năng xuất lao động mà chúng tôi vẫn được no bụng thì sẽ không vi phạm. Nếu lời yêu cầu lần chót nầy mà trại vẫn chủ trương đàn áp chúng tôi, bắt chúng tôi tăng năng xuất mà bụng quá đói lại không vi phạm cải thiện linh tinh, như vậy là trại đã rào cản sinh lộ của chúng tôi đưa chúng tôi vào đường cùng, đến như con trùng (giun) đạp nó cũng phải quẫy.

Riêng tôi đã cải tạo 5 năm rồi, đã ý thức được cải tạo của CM là con đường duy nhất để về đòan tụ với gia đình, nếu được tha có thể sống thêm được 10 năm nữa thôi, còn như ở trại cải tạo với chế độ ăn uống, lao động đàn áp như thế nầy, chúng tôi không chết vì bệnh tật do lao lực, cũng chết vì bị đánh đập, có cố gắng kéo dài mạng sống cũng chỉ được 1 năm nữa là cùng. Trước sau gì cũng 1 lần chết không ai thóat khỏi định luật sinh, lão, bệnh, tử, thế thì sao ta không lựa cái chết danh dự mà phải để nhục nhã rồi chết! Ðó là tôi nêu tâm trạng của 1 cải tạo viên đang bị đói, bị đàn áp. Trại cũng nên cứu xét lại đừng để xảy ra mang tiếng với thế giới, kẻo làm sai chính sách của đảng và nhà nước mà mang tội với Tổ Quốc! Lời phát biểu của tôi đã được anh Ðặng Trần Huân (Vua tiếu lâm) ngồi trước tôi ra hiệu tôi bớt lại, anh sợ tôi nói quá lố, vì nói lời nào thì ghi vào biên bản, mà khi đã ghi thì không sửa được, nhưng tôi đã quyết tâm làm vật hy sinh nên không còn úy kỵ gì cả!!!

Nếu lời yêu cầu của chúng tôi lần nầy là tiếng kêu cuối cùng mà trại không cứu xét thay đổi thái độ, nghĩa là vẫn áp dụng chúng tôi bằng vũ lực, riêng cá nhân tôi nếu bị đánh tôi sẽ có phản ứng, cán bộ nào đánh tôi, tôi sẽ đánh lại, lúc đó không được thì sau đó, như vậy tất sẽ đổi mạng, mà đến lúc cùng tôi sẽ không đổi rẻ 1 đổi 1 đâu. Chịu đựng bao gian lao cực khổ hơn 5 năm trời cải tạo thì mạng tôi sẽ đổi tối đa ! Hành động chúng tôi như vậy không phải là chống đối CM mà chỉ là phương tiện cảnh tỉnh những cán bộ sai lầm. Chính sách của CM rất sáng suốt mà chỉ có cán bộ thừa hành làm hư chính sách tức là phá họai chính sách của đảng của nhà nước vv… Sau khi sinh hoạt xong nhiều anh tỏ ý lo ngại cho tôi. Có anh nói “Bệnh tòng khẩu nhập – họa tòng khẩu xuất”. Có anh khuyên tôi, trong thời gian cải tạo thì nên “Thủ khẩu như bình” và trong khi phát biểu thì “nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít. Càng nói càng sai, mà lâu lâu nói 1 câu cũng vẫn có sai, tốt nhất là đừng bao giờ nói cả!” Có anh còn bảo tôi, thôi sửa sọan mai lên phòng kỷ luật, ít lắm cũng 15 ngày, trời rét nó không đánh, chỉ áp dụng theo đúng nguyên tắc là khóa chân nằm trên sàn ciment chỉ còn 1 quần lót không cũng đủ chết cóng rồi! Tôi thầm nghĩ câu Thánh hiền để lại “Phú quí bất năng dâm. Bần tiện bất năng di. Uy vũ bất năng khuất. Thử chi vị Ðại Trượng Phu”. Chẳng lẽ trong thành phần cải tạo Z nầy không có “Thử chi vị Ðại Trượng Phu” hay sao?!


• KẾT QUẢ CỦA LỜI PHÁT BIỂU Ý KIẾN.

Cách 2 ngày sau, tôi đang làm cỏ mía thì anh Ngọc Tổ trưởng gọi tôi ra trình diện cán bộ. Tôi ra ngòai đường thì thấy 3 anh CA, 1 Vệ Binh và 3 Tuần Tra, hai anh cầm súng AK còn 1 anh tay không, 3 anh đứng 3 góc, tôi đứng giữa tay còn cầm cuốc, một trong 3 anh bảo tôi bỏ cuốc ra đằng kia, mặt anh nào cũng lộ vẽ “sát khí đằng đằng” thấy tôi bỏ cuốc với bộ mặt thản nhiên, một anh hỏi: “Bộ anh có nghề giỏi lắm phải không?” Tôi hỏi lại “nghề gì cán bộ?” Một anh hỏi tôi cấp chức, học trường nào? Nghe tôi trả lời xong Y lại hỏi tôi “Trường sĩ quan có dạy võ không? Dạy võ gì?” Tôi đáp: Quyền Anh –Nhu Ðạo, ngòai ra tôi có học thêm võ Thiếu Lâm, đó là hồi còn trẻ còn ham thích, sau càng lớn tuổi tôi thấy dùng “cương” không bao giờ thắng “nhu” vì “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Thấy tôi xổ nho, một trong 3 anh hỏi tôi nghĩa tiếng Việt là sao? Nghĩa là, tôi đáp: Người giỏi có người giỏi hơn. Không ai tự hào là vô địch bao giờ? Một anh hỏi tôi “Nhắm chừng đánh thắng 3 đứa tôi nổi không?” Bỗng tự nhiên mà đánh, tôi không dám, hơn nữa thân phận tôi hiện giờ là tù, còn 3 vị đang mặc sắc phục là cán bộ đại diện của Ðảng, của Nhà nước đang thi hành nhiệm vụ, còn tôi đã cải tạo hơn 5 năm như trái cây sắp chín, sắp được ăn trái khoan hồng của CM, họa chăng có điên mất trí mới đụng tới các cán bộ. – Thế thì sao anh tuyên bố nếu ai đụng tới anh, anh sẽ đổi mạng? Tôi nói: À, thì ra cán bộ đề cập tới lời phát biểu ý kiến của tôi hôm sinh họat Ðội, nếu cán bộ ở vào hòan cảnh tôi cũng phải có ý nghĩ như vậy. Tôi năm nay đã 50 tuổi đầu, nếu được khoan hồng về sống với gia đình chỉ sống 10 năm nữa là cùng, bất quá cho đàn con nó “dưỡng lão khất ngôn” đó là đạt mục đích. Còn trường hợp cải tạo không biết thời gian với chế độ lao động tiêu chuẩn ăn đói, bị áp lực, tinh thần luôn luôn bị căng thẳng như hiện nay, tôi không chết vì lao lực, bệnh tật, thì thời gian chịu đựng cũng chỉ chừng 1 năm nữa là cùng, trước sau thì đằng nào cũng phải chết thì tại sao tôi lại không lựa cái chết danh dự cho con cái nó còn hãnh diện vì cha nó !

Một anh CA lại hỏi: Thế ở trại nầy ai làm gì anh nếu anh giữ đúng nội qui?
Tôi nói : - Giữ đúng nội qui? Làm nhiều cho đủ chỉ tiêu mà ăn đói, 2 điều nó nghịch nhau, không thể ai làm nổi, nếu 1 trong các cán bộ ai chịu được như tụi tôi, trong vài tháng thôi, thì tôi sẽ lấy tính mạng tôi tôn vinh người đó liền!
Gã CA nói: - Các anh là phản quốc, đáng lý phải tử hình mới đáng, đằng nầy CM khoan hồng cho các anh cải tạo thành người lương thiện thì các anh phải khắc phục khó khăn mà cải tạo tốt!
Tôi trả lời: - Cán bộ nói câu nầy tôi đã nghe trên 5 năm nay rồi, trong những buổi thảo luận tự do tư tưởng mà cấp cao của qúi vị cũng chưa giải đáp những vấn đề chính trị giữa ý thức hệ Cộng Sản và Tư Bản mà chúng tôi nêu ra, qúi vị chưa phải đối tượng tranh luận với tôi đâu! Có chăng qúi vị cậy có vũ khí với sắc phục có nhiệm vụ CM mà lấy vũ lực đè người ép bức tôi thì được. Các vị phải nhớ là qúi vị đang thừa hành nhiệm vụ của Ðảng của Nhà Nước giao phó. Các vị làm sai chính sách các vị sẽ lãnh trách nhiệm về hành động và hậu qủa do các vị gây ra!
Một trong 3 anh cười, đến vỗ vai tôi, từ nãy tới giờ là chúng tôi thử anh để đo trình độ ý thức CM của anh, có thế thôi. Thôi anh về chỗ lao động, thấy anh già mà còn “sung dữ”. Thế là từ đó trại lại cho cải thiện như trứơc !


• MỘT VỤ VƯỢT NGỤC CÓ ẢNH HƯỞNG

Một buổi trưa Chúa Nhật nghỉ theo thường lệ, bỗng nhiên các Quản giáo và các vệ binh ùa vào trại ra lệnh tất cả chúng tôi ai về buồng nấy điểm danh. Buồng tôi thiếu 3 người thuộc đội làm trà và ngô ở khu nhà lá mới làm cũng thiếu 3 người. Tổng cộng tù Z vượt ngục 6 người; 3 cấp Thiếu Tá là anh Quyền Tiểu Ðòan Trưởng Biệt Ðộng Quân, anh Ðại Quận Trưởng và anh Khánh Thiết Giáp. Còn là 3 anh cấp Ðại Úy là anh Năng, anh Ngọc thuộc binh chủng Không Quân, anh Xuyên Ðại Ðội Trưởng Bộâ Binh. Buồng tôi khi CA khám xét thì thấy 2 song sắt 35 ly của cửa sổ trong cầu tiêu bị cắt đứt 2 đọan thành 4 lằn cưa, vết cưa thẳng như cắt củ khoai, nhờ CA khám xét mới thấy, nếu không khó mà biết các anh trốn bằng lối nầy vì không để vết tích, khôg mạt cưa sắt để lại. Khi trốn khỏi lối nầy các anh lại ráp song sắt như còn nguyên. Nếu có cưa sắt tốt cũng phải 4 giờ làm với 1 người vì chỗ hẹp cửa sổ nầy chiều ngang khỏang 0, 70cm mà chiều cao độ 0,40cm với tường đá tảng xây dầy 50cm Các anh nhỏ con nên nên trốn bằng lối nầy từ đêm Thứ Bảy mãi đến trưa Chúa Nhật mới phát giác, báo hại 2 người nằm cạnh người trốn bị tống giam ngay vào trại kỷ luật để điều tra về tội biết bên cạnh trốn mà không báo cáo, chỗ nằm các anh đều buông màn, đắp chăn với đồ để như người ngủ. Ðiểm danh sáng đó Ðội Tưởng báo cáo Giám Thị có 3 anh ốm bệnh nằm trên sàn, nên đội trưởng báo cáo sai cũng bị giam vào nhà kỷ luật để điều tra, vì tối hôm trước 3 anh khai bệnh với đội trưởng xin nằm tại chỗ điểm danh vì bệnh. Ngày hôm sau, Thứ Hai chúng tôi được nghỉ lao động, chỉ có tù hình sự đi làm thôi vì vệ binh mắc đi hành quân lục sóat không đủ người dẫn giải đi lao động.

Sau vụ vượt ngục nầy có một số anh bị tình nghi tiếp tay cũng bị giam vào nhà kỷ luật để điều tra, đồng thời trại lại cho xây bít cửa sau trại, cổng nầy trước đây phá mở rộng Khi tù Z ở các tỉnh Miền Bắc di tản về để tránh quân “Bành trường Bắc Kinh” bây giờ thành 2 trại. Trại kiên cố phía trước để giam tù Z, còn trại phía sau bằng gỗ để giam tù hình sự. Kế đó Ban Giám Thị sắp lại các Ðội, Ðội đang làm mía qua lô trà, người đội nọ qua đội kia, làm một cuộc trộn lộn tòan bộ. Tôi cũng bị đổi qua lô làm trà do bà Viên cũng (Trung úy, vợ ông Thục) chủ nhiệm lô trà và Trung Sĩ Chín (hung thần cũ) làm quản giáo lô nầy. Chủ yếu là làm cỏ trà và hái trà, xay trà, sấy trà rồi gửi đi Hà Nội. Công việc nào cũng chỉ tiêu. Bà Viên chủ nhiệm lô trà được mệnh danh là “Trại Chung Vô Diệm”, bà mặt đen, tàn nhang, tướng kệch cợm như đàn ông, đã xấu người lại xấu cả nết. Bà nầy luôn gây khó khăn trong việc làm của chúng tôi, xét nét từng ly, từng chút, kiếm chuyện đủ điều, cả trại ai cũng ngán làm ở lô nầy!

Vụ vượt ngục của 6 người được hơn 1 tháng thì bị bắt lại tòan bộ ở biên giới Lào và Thái Lan, 6 anh được trại cho xe đi đón về giam trong khu kỷ luật. Ðêm hôm vượt ngục trốn trong rừng mấy ngày để tránh hành quân lục sóat của CA và đòan chó đánh hơi, các anh xát tỏi vào nguời và bỏ quần áo vào nơi khác để đánh lạc hướng truy lùng, sau đó phải lội xuống nước đi dọc bờ sông Lam tới biên giới Lào, dọc đường bị lạc nhau thành 3 tóan, tóan 3 người, tóan 2 người và tóan 1 người, cứ ngày trốn đêm đi, ăn tòan rau rừng để tiết kiệm lương khô, tới địa phận Lào, trong rừng tóan 1 người mới gặp tóan 3 người, ai cũng gầy ốm, hốc hác vì thiếu ăn, mất ngủ, bị vắt, bị muỗi rừng, có anh bị kiết lỵ phải nghỉ trong rừng chữa trị mất 3 hôm. Tóan 4 người bị hết lương thực phải kiếm ruộng rẫy của dân Lào mà kiếm ăn. Một hôm kiếm được rẫy bắp lý tưởng, bắp già mà tốt quá, phần bị đói mấy ngày nên chủ quan nướng tại rẫy ăn thì bị 1 chú Lào nhỏ trông thấy chạy đi báo cáo cho du kích Lào, các anh đã cảnh giác mà cũng không kịp, hai anh bị bắt tại bìa rừng vì đói quá đi không nổi, còn 2 anh chạy vào rừng được 2 ngày sau cũng bị chó đánh hơi tìm thấy trong hốc núi. Trong tóan du kích Lào có 1 anh bộ đội Việt Nam làm “chuyên gia” cho địa phương đó. Tất cả CA biên phòng và bộ đội ở Lào đã nhận được tin tù Z vượt ngục nên các anh không còn chối cãi gì được, khi bị bắt là họ nhận diện đúng các anh đang bị truy nã, nên các anh bị trói thúc ké suốt thời gian cho đến khi CA đến nhận về điều tra. Tóan 2 người cũng bị bắt lại ở biên giới Thái Lan đụng với bộ đội Việt Nam đang hành quân. Tất cả 6 người đều bị bắt đưa về CA Việt nam điều tra xong thì CA trại 6 Nghệ Tĩnh tới đón về. Sáu người chỉ còn da bọc xương, không ai đi nổi, trong số đó có anh Ðại bị CA trại 6 Nghệ Tĩnh tới đánh và bắn 1 viên đạn vào đùi vì đã để “khổ chúng tao”. Tới trại các anh bị biệt giam vào khu kỷ luật (trại 6 cũ) để điều tra, được chừng 1 tháng thì anh Quyền bị chết trong khám vì bị đánh, bị bệnh. Anh Khánh bị kiết lỵ đang thoi thóp, được chở vào bệnh xá giao cho chúng tôi (Y tá tù Z) điều trị, nhờ có thuốc ngọai quốc của anh em cấp cứu kịp thời nên anh Khánh mới từ từ hồi phục. Họ giam riêng các anh gần 1 năm mới cho ra lao động!


• THÁNH LỄ MISA KHÔNG TRÔNG THẤY LINH MỤC LÀM LỄ

Trại chúng tôi trứớc có 4 Linh Mục và 2 Ðại Ðức đều là Tuyên Úy, sau 2 Linh Mục được chuyển trại còn 2 vị bị giam riêng vào khu kỷ luật (không phải khoen chân) ngày cũng được đi ra ngòai sân, tường bao quanh, khu rộng chừng 600m2 gọi là khu biệt giam, khu nầy có chừng 10 tù Z thì hết 4 vị là tu sĩ còn lại là thi sĩ Hà Thượng Nhân và Tô Thùy Yên.

Những ngày lễ trọng của Công Giáo và lễ Chúa Nhật đều có Linh Mục ra sân làm lễ MISA cách chúng tôi bức tường 3m là sân trại, những người Công Giáo chúng tôi đều cùng nhau hướng về khu biệt giam mà xem lễ, cả rượu lễ chịu phép Mình Thánh Chúa bằng bánh mì từ bên trong liệng ra cho chúng tôi hứng bắt, không để rớt xuống đất, rồi chia nhau chịu lễ. Tuy bị cấm nhưng chúng tôi vẫn tìm mọi cách để giữ đạo, bảo vệ đức tin tuyệt đối. Một vụ điển hình, trước đây, thỉnh thỏang trại bắt chúng tôi mang đồ đạc hành lý cá nhân ra sân kiểm kê, tịch thu các đồ bằng kim khí và những thứ trại cấm, có 1 anh có tượng Chúa Giê-Su trong Thánh Gía cả sâu chuỗi, bị công an tịch thu thì anh nầy cương quyết giành lại nắm trong tay còn tuyên bố: “Trừ khi giết tôi chết mới lấy được Chúa tôi”. Trước tinh thần Công Giáo gần như quyết tử vì Ðạo, khiến Ban Giám Thị trại phải làm ngơ ! Tù nhân của chế độ Tư Bản: Dưới tù tử hình là tù khổ sai chung thân là tù bị làm việc nặng và thân thể bị mất tự do nhưng vẫn được thăm nuôi tiếp tế và gặp thân nhân nói chuyện mỗi tháng 1 lần, duới sự kiểm sóat của giám thị, về thư từ tình cảm gia đình không hạn chế, ngòai ra hằng năm đều có hưởng ân xá, đặc xá theo các ngày lễ lớn, miễn sao tù nhân không vi phạm nội qui. Về tín ngưỡng tôn giáo nhà tù nào cũng tạo điều kiện cho tùtự do. Còn tù nhân XHCN VN không những tù thân xác mà còn tù cả tinh thần, tín ngưỡng tình cảm luôn!!!


• TỰ KHAI TIỀN TÍCH LẦN THỨ HAI


Cho đến năm 1980, gần 3 năm tù ở trại nầy, tù Z chúng tôi được học tập thêm 3 bài chính tri vào dịp mưa bão không thể đi lao động được.

Bài thứ 17: “Biến cả nước thành một công trình vĩ đại xây dựng XHCN”. Theo trong bài nầy thì muốn xây dựng XHCN, trước tiên phải xây dựng con người XHCN, đồng thời phải làm 3 cuộc CM là “Cách Mạng sản xuất, CM khoa học kỹ thuật và CM văn hóa tư tưởng”. Hiện tình hình đất nước đang khó khăn về mặt kinh tế vì phải tự lực cánh sinh nên cuộc CM khoa học kỹ thuật phải đốt giai đọan mà xây dựng XHCN nên phải gặp khó khăn về giai đọan nầy, nhưng chỉ là khó khăn tạm thời, chúng ta phải khắc phục mà tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc để xây dựng XHCN!!?

Bài thứ 18 : “Chính sách nhà nước CHXHCN VN đối với những người phạm tội đang cải tạo”. Trong bài đánh giá chúng tôi phạm tôi phản quốc, bán nước, phi lao động, ăn bám nhân dân vv… Nên CM mới mở 1 sinh lộ là cải tạo lao động và cải tạo tư tưởng để trở thành người lương thiện mới được hưởng khoan hồng về đòan tụ với gia đình, sống trong cộng đồng dân tộc v.v… Ngòai ra chúng tôi muốn tiến bộ phải đạt 6 tiêu chuẩn cải tạo là :

1/ - Phải thành khẩn khai báo hết, khai đúng tất cả tổ chức, khai tiền tích cùng những kẻ có liên quan phá họai CM.
2/ - Phải báo cáo để phát giác kịp thời khi thấy có hành động, lời nói, tư tưởng phản động có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp phá họai Cách Mạng.
3/- Phải tiếp thu trao dồi ý thức CM, đạo đức CM để trở thành công dân XHCN Việt Nam.
4/ - Phải lao động có năng xuất, có kỹ thuật khoa học, đạt chỉ tiêu ngày công có ích.
5/ - Phải phát huy sáng tạo lao động sản xuất mỗi ngày một tiến bộ.
6/ - Phải động viên lao động sản xuất với tinh thần làm chủ tập thể.

Bài học nầy đã có anh phát biểu ý kiến: “Cách mạng cải tạo chúng tôi thì được, có thể chúng tôi theo được. Còn CM định cải tạo tư tưởng chúng tôi, thì kiếp nầy chắc chúng tôi phải chết trong trại cũng không cải tạo được. Vì ý thức, tri thức và tư tưởng của con người bản chất tư hữu là tự do tín ngưỡng, tự do tình cảm đã đi sâu vào tiềm thức chúng tôi thành tập tục, thành thói quen từ đời ông, đời cha truyền lại đến đời con chúng tôi nữa, không lẽ CM lại “tru di tam tộc” chúng tôi, hơn nửa đời người, tiềm thức nầy đã thành máu huyết, óc chúng tôi đã là thành kiến chai cứng, cũng giống như con chó mực (chó đen) mà CM muốn cải tạo thành chó trắng, có đem cạo hết lông, hay thui hết lông nếu còn sống nó cũng lại mọc lông đen nữa. Chó mực lại hòan chó mực, và chủ nghĩa Cộng Sản là chủ nghĩa không có tư hữu khác biệt, nếp sống bẩm sinh của con người là phải có tư hữu mới phát triển, mới tiến bộ. Ðể chứng minh luận thuyết nầy, tôi xin đan cử một ví dụ điển hình là “Ðứa trẻ sơ sinh, chắc chắn chưa ai giáo dục được nó ngay nên nó còn thiên tính tự nhiên của con người, nó bú vú mẹ còn 1 vú nó nắm giữ, nếu có đứa trẻ khác đến bú vú của mẹ nó. Nó sẽ “cà nanh” khóc đòi độc quyền một mình. Như vậy tư hữu của con người là thiên tính bẩm sinh. Một ví dụ chứng minh khác nữa là chúng ta thử so sánh ruộng Hợp tác xã với ruộng cá thể, có thể thấy phần lớn ruộng tư hữu tốt hơn ruộng tập thể (HTX). Mặc dù Miền Bắc đã đi vào sản xuất tập thể XHCN được hơn 20 năm nay mà đâu có cải tiến được, chứng tỏ tư hữu hợp với lòng dân, hợp với thiên nhiên hơn!

Kế đó có anh phát biểu về 6 tiêu chuẩn cải tạo là, 4 tiêu chuẩn sau có tính cách cải tạo lao động, trau dồi đạo đức CM, chúng tôi thi hành được. Còn 2 tiêu chuẩn đầu biến chúng tôi thành mật thám, chỉ rình ai có lời nói hay hành động nào trực tiếp hoặc gián tiếp chống đối CM thì phải báo cáo ngay để lập công. Do đó chúng tôi khó mà đạt 2 tiêu chuẩn nầy, như vậy cải tạo chưa tiến bộ, tức là chưa thành chó săn thì chưa được về! Bây giờ xin đặt ngược vấn đề, con đường XHCN tiến tới Cộng Sản Chủ Nghĩa mà qúi vị nêu cao là con đường tốt đẹp nhất, không có người bóc lột người v.v… Con đường nầy nếu đã thật sự hợp với lòng dân, hợp với sự tiến bộ của lòai người thì tại sao ta không công khai tuyên truyền, quảng bá cho quần chúng, đưa chính nghĩa nầy để danh chính ngôn thuận với lòng dân, để dân tự nguyện theo thì cần gì phải đặt hàng rào để ép buộc. Trên thế giới bây giờ đang đấu tranh giữa 2 ý thức hệ Cộng Sản và Tự Do Tư Bản, đang nghiêng ngửa đấu tranh chưa phân biệt thắng bại, giới trí thức chúng tôi đang lựa chọn chính nghĩa, chỉ đợi CM canh cải cho cụ thể, cho thực tế hợp với lòng dân, và sớm khoan hồng cho chúng tôi về đòan tụ với gia đình để cùng xây dựng XHCN VN.

Tiếp theo là bài học thứ 19: “Thành thật khai báo lý lịch là thái độ đúng đắn của người phạm tọâi đang cải tạo”. Nội dung bài nầy là nhắc lại từ ngày cải tạo đến nay đã khai báo đúng chưa?? Khai hết chưa? Ðã thành khẩn chưa? Phải khai hết, khai đúng mới được xóa tội. Bậc vĩ nhân đã nói; “Kẻ phạm tội thì rất nhiều, vì không phải là Thánh nhân, nhưng đã mấy ai dám nhìn nhận tội lỗi của mình" – Can đảm nhìn nhận tội lỗi của mình thì chúng tôi có thể, nhưng còn tùy thuộc CM có khoan hồng trả tự do cho chúng tôi không? Khi thấy kẻ phạm tội đã thật tình khai hết không? Kế đó chúng tôi mỗi người lại làm bản tổng kiểm thảo lần thứ 3 để so sánh bản 1 và 2 có chỗ nào khai man thì điều tra bổ túc ! . . .

• BẢN TỔNG KIỂM THẢO III
Chúng tôi cũng khai như bản “Tổng kiểm thảo” 2, cũng khai tiểu sử tiền tích họat động từ nhỏ cho đến ngày giải phóng. Bản nầy tôi khai thêm từ năm 1947 khi được tin Thầy tôi mất tích (Chú Th + chú K) hồi cư vào Hà Nội, hồi đó thuộc vùng Pháp cai trị. Tại Hà Nội tôi tiếp tục học chữ, học nghề. Dịp nầy chị Quảng cán bộ VM phụ trách giao liên nội thành Hà Nội có tới thăm nhà tôi nhiều lần. Mọât hôm chị báo tin cho tôi biết, Thầy tôi bị bọn địa chủ hạ sát, cột đá bỏ xuống sông Ninh Cường vì Thầy tôi không theo phe chúng. Lúc đó nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bắt được tòan bọn, đem xử bắn thủ phạm, chính tay anh D. (anh cùng cha khác mẹ) được nhà nước cho bắn, rồi làm lễ truy phong liệt sĩ cho Thầy tôi. Do đó chị Quảng yêu cầu tôi vào ”Biệt Ðộng Ðội nội thành”, , một phần vì ơn nghĩa chị Quảng đã xin cho ông cậu tôi đang bị tù tại Quân Khu 3 được tha về, nên tôi tham gia họat động VM từ năm 1947 đến năm 1949 thì cơ sở tôi bị bắt (Mật thám Pháp bắt) tòan bộ, tại Nha Công An Bắc Bộ (tức sở mật thám Hà Nội). Tôi đang bị thẩm vấn thì ông Trần văn Lý phó giám đốc Nha Công An Bắc Bộ kiêm trưởng phòng chính trị nhận ra tôi là con ông C. là bạn với Thầy tôi, ông trách tôi: “Sao cháu ngu thế, họat động cho Việt Minh là kẻ thù đã giết cha cháu là người công giáo bảo thủ, rồi đổ thừa địa chủ giết. Ðịa chủ nào dám giết người ?!” Nhờ vậy mà tên Michelle Tây tha tôi!

Ðầu năm 1961 tôi đang làm việc tại Nha An Ninh Quân Ðộ VNCH được tin mẹ tôi từ Miền Bắc vượt tuyến vào Nam qua ngả Gio Linh, Quảng Trị bằng thuyền, cùng đi với bà vợ lẽ của Ðại Tá Tỷ (hồi đó đang làm ở Nha Chiến Tranh Tâm Lý). Tôi đến trại tỵ nạn Cộng Sản tại Ngã Năm Bình Hòa Gia Ðịnh ký bảo lãnh cho mẹ tôi về và hàng tháng dẫn mẹ tôi trình diện Nha Tổng Cảnh Sát mấy tháng để bổ túc hồ sơ.

Năm 1962, Tôi bị đổi đi đơn vị chiến đấu tại Dakto kontum thuộc Trung Ðòan 40 / Sư Ðòan 22 Bộ Binh, ra đây được vài tháng thì có lệnh của Nha ANQÐ ( Chỗ tôi làm việc trước) đòi tôi về trình diện Khối Công Tác yêu cầu tôi dùng tình cảm mà lấy lời khai mẹ tôi. Dịp nầy tôi đựơc biết mẹ tôi được Mặt Trận Tổ Quốc bố trí vào Nam công tác binh vận, do bà vợ bé Ðại Tá Tỷ khai khi bị bắt, riêng mẹ tôi chỉ biết MTTQ cho vào Nam gặp con, còn công tác sau nầy sẽ có người liên lạc móc nối. Sau đó mẹ tôi bị giữ ở Nha ANQÐ gần 1 tháng. Kết quả trận chiến “phản gián” của 2 bên thì VNCH thua vì lọai bỏ 1 cán bộ trong ngành ANQÐ ra ngoài đơn vị chiến đấu. Năm năm sau mẹ tôi thình lình mất qua cơn trúng gió chỉ mấy giờ đồng hồ, trước đó người mẹ tôi đang béo tốt mạnh khỏe. Mẹ tôi mất ở Di Linh đang thời gian ở chơi với cô em họ tôi, 3 ngày sau tôi từ Kontum mới về đến nơi không kịp nhìn xác mẹ tôi lần cuối cùng!!!. Cho đến năm 1977 ở Trại 6 Hòang Liên Sơn Văn Chấn, tôi được ông Trung Tá Quyết gọi lên nhận họ hàng, dịp nầy tôi nhớ câu ông nói: “Ðến cái chết của mẹ anh mà cũng không biết…” Cho đến năm 1980 Dì tôi thăm nuôi mới cho biết MTTQ điều tra biết Mỹ giết mẹ tôi, nên mẹ tôi được phong liệt sĩ và làm lễ truy điệu mẹ tôi rất trọng thể.

Năm 1962 tôi xuất ngành ANQÐ vì Nha ANQÐ sợ mẹ tôi “binh vận”, mà nay mẹ tôi đã mất rồi, nhân dịp ngành ANQÐ mở thêm cấp Chi ANQÐ đang thiếu cán bộ, anh Sảo (anh em cột chèo với tôi) Chánh Sở 4 ANQÐ hồi đó bảo lãnh tôi tái nhập ngành ANQD năm 1969 đến năm 1972 tôi được làm Trưởng Ty ANQÐ Lâm Ðồng. Thời gian nầy có một mục mà tôi đưa thêm vào tội ác quân Ngụy trong bản Tổng Kiểm Thảo như sau: “Trung Tá Lưu Thành Hữu Tỉnh Trưởng Tỉnh Lâm Ðồng (VNCH) nhận được 1 bức thư của Bí Thư Tỉnh Ủûy Tỉnh Lâm Ðồng (MTGPMN) gửi qua trung gian Pháp kiều chủ đồn điền cây số 16 tên Jean Dupuis. Nội dung bức thư kêu gọi Trung Tá Hữu hãy ngưng bắn, để nói chuyện hòa giải trên tinh thần của Hiệp Ðịnh Ba-Lê, nếu Trung Tá Hữu đồng ý sẽ trả lời trên điện đài máy PCR 25 với tần số và giờ ấn định, dưới bức thư ký tên Tám Cảnh, bí thư Tỉnh ủy Lâm Ðồng, Tôi đề nghị Trung Tá Hữu là cứ trả lời trên máy là muốn gặp để nói chuyện, mục đích để xác định tọa độ, nhưng lúc đó ANQÐ chưa có máy định hướng dò đài, nên tôi phải nhờ phòng PSCD Mỹ ở Nha Trang dò làn sóng tìm vị trí bằng máy định hướng trên phi cơ. Kế đó bức thư thứ 2 của anh Tám Cảnh gửi Trung Tá Hữu, nội dung, trước khi ấn định vị trí gặp nhau hãy ngưng bắn và cho anh Tám Cảnh mượn 1 máy PRC 25 để nói chuyện vì máy anh Tám hư, được dịp phòng PSCD đưa máy PRC 25 cho tôi, bên trong có gài máy phát tín hiệu để dễ dò tìm vị trí, nhưng máy nầy không thấy ra khỏi đồn điền của Jean Dupuis, nghĩa là anh Tám hỏi thử chứ không nhận máy, nên kế họach dò tìm vị trí không thành, tiếp đó tôi làm kế họach ly gián, thay mặt Trung Tá Hữu gửi thư cho anh Tám Cảnh, nội dung cám ơn anh Tám đã giúp việc ở B’sar (Việt Cộng tấn công bị chết nhiều) mập mờ 2 ý (gây ly gián nội bộ CM) gửi qua đường giây xe be đóng thuế cho CM tại Phan Thiết, tức mật khu Lê Hồng Phong. Thư tới B3 chỉ huy Quân Khu 6 MTGPMN chừng 2 tuần. Sau có tin anh Tám Cảnh được mời về Quân Khu họp rồi biệt tin luôn! Bản Tổng kiểm thảo 3 nầy tôi viết chi tiết hơn, kinh nghiệm làm bản Tổng Kiểm Thảo 4, lợi dụng việc nầy tôi viết kéo dài tới 2 tuần lễ nghỉ lao động, ngồi ở trại viết. Mỗi ngày trung bình viết 2 tờ giấy khổ lớn, viết 2 mặt giấy. Anh cán bộ phụ trách (Bộ Nội Vụ) hỏi tôi sao viết chậm thế?

Tôi cho biết vì sự việc lâu quá nên quên, phải tập trung tư tưởng viết, đọc lại mới nhớ thêm nên tôi phải viết lại. Kinh nghiệm những lần trước cán bộ phụ trách thích tôi viết nhiều, lấy số lượng giấy viết làm chuẩn, nghĩa là viết làm sao phải nhiều hơn lần trước mới đạt. Biết vậy nên tôi viết kể lể cà kê dê ngỗng với lối văn “Nửa đêm giờ tý canh ba, vợ tôi con gái, đàn bà, nữ nhi…” Tháng 9/1973 tôi được thuyên chuyển làm trưởng phòng ANQÐ Cam Ranh cho tới di tản rồi biến cố ngày 30/4/1975 như đã trình bày ở đầu tập hồi ký nầy.

Sau lần viết tiểu sử tiền tích của tôi lần thứ 4 (1981) Hơn 6 năm cải tạo mà không tăm hơi được tha gì hết! Anh em chúng tôi ai cũng chán nãn, hết tin tưởng vào chính sách khoan hồng của CM. Theo như trong chính sách 12 điểm mà chúng tôi đã học tập ở trại Biên Hòa (Miền nam). Ai cũng hy vọng cải tạo 3 năm theo điểm 9 trong 12 điểm thì chúng tôi đa số ở trong điểm 9, nghĩa là ấn định mỗi mốc cải tạo là 3 năm, nếu trong 3 năm đầu mà không tiến bộ, không chịu cải tạo sẽ đưa ra tòa xét xử. Ðằng nầy hơn 6 năm không thấy tha, cũng không đưa ra tòa xét xử? Trong khi đó có 1 tin từ người nhà thăm nuôi, anh Trung Tá QuậnTrưởng tại địa phương nầy được bình nghị kín xét xử 15 năm tù vì nợ máu nhân dân hồi tại chức, nếu bản án nhân dân xử khiếm diện nầy có thực thì chắc cải tạo Z không ai còn sống. Tự nghĩ, không lẽ mình chịu chết dưới tay cộng sản sao? Phải vận dụng trí óc, tìm ra một sinh lộ; vượt ngục thì mình không có khả năng, còn mưu kế thì đang trong tù làm sao thi hành? Hay ta thử nghĩ một trong thuật “Thỉnh tướng không bằng khích tướng”. Hôm sau tôi gửi ra Hà Nội cho chú K. một bức thư, nội dung: Kể lại chuyện tôi họat động VM từ năm 1947 đến năm 1949 bị bắt, thời gian lý tưởng của một thiếu niên nằm trong lòng địch mà chống địch (Pháp) khi bị bắt vì lời nói của ông Lý (Phó giám đốc Công An Bắc Bộ) nhận là bạn của thầy tôi, trách tôi: Tại sao ngu thế? Họat động theo VM là kẻ thù giết cha mầy, bị VM thủ tiêu vì thành phần “Công Giáo bất trị”, từ đó anh mang hòai bão báo thù cho cha nên bị sa lầy cho đến ngày nay, đang bị tù mà còn bị bạn bè mỉa mai “Cha mẹ là liệt sĩ, bản thân đã họat động CM ba năm bị địch bắt cầm tù, thành tích CM như vậy mà vẫn còn ở tù, chắc tụi mình ở tù rục xương mất thôi” Những lời mỉa mai nầy khiến anh không thiết sống nữa!!!” Bức thư nầy chắc chắn sẽ bị kiểm duyệt, có thể hồ sơ cứu xét tha, tôi có ưu điểm hơn các đồng cảnh của tôi… Ðang khi tinh thần của chúng tôi bị chán nản, thì có lệnh đột xuất chuyển trại về Miền nam tại Hàm Tân, đợt đi nầy được 2/3 trại. Trong số còn lại có tôi!

Tháng 6/1981, tôi đang gánh nước cho lô trà thì thấy có 1 chú chừng 25 tuổi, đầu đội nón cối mặc đồ dân sự ra tận hồ chỗ tôi gánh nước, hỏi tôi có phải anh Ð. không? Tôi tưởng cán bộ nào nên hỏi trở lại “Chẳng hay cán bộ có điều gì hỏi tới tôi?” Thì chú nầy cười nói nhỏ”Em là Sơn, con ông B. ở Hà Nội vào thăm anh đây” Thì ra chú Sơn con cậu B. Tôi đi vào Nam thì chú còn bú mà làm sao tôi nhận được. Chú cho biết đi thăm tôi có cả chú K. hiện ở nhà tiếp tân. Trại nầy chú cũng ở tù 3 năm, được tha trước khi chúng tôi đến nên biết rành mọi chỗ, quen cả công an dẫn giải đội tôi nên chú được tự do tới chỗ tôi làm hỏi chuyện, dịp nầy chú đưa tôi 100 đồng, một gói kẹo và 2 gói thuốc lá Thăng Long (Lọai thuốc lá thơm) hỏi tôi cần gì thì sáng mai thăm nuôi sẽ thực hiện. Tôi nói: “Anh em đang đói, sáng mai nấu sẵn nồi cơm và xôi cho khỏang 20 người ăn… tới đây thì công an dẫn giải đến nên tôi phải giấu kẹo và gánh nước về lô. Sáng hôm sau tôi được gọi ra thăm nuôi, lần nầy chú K. dẫn chú Sơn để lần sau thay chú đi thăm nuôi tôi. Kỳ thăm nuôi nầy 2 chú cũng nấu cơm, rồi vắt cơm từng nắm với xôi cùng thức ăn cho khỏang 30 người ăn, tôi mời bạn bè được 1 bữa no. Tuy không mời hết Ðội, nhưng ai tôi cũng mời tối thiểu là điếu thuốc, viên kẹo, hoặc miếng bánh gọi là “của ít lòng nhiều”. Kỳ thăm nuôi nầy có chú Sơn quen biết nên cán bộ dẫn giải cũng dễ dãi cho anh em tôi tự do chuyện trò. Dịp nầy chú K. còn cho biết, Dì và Chú có nhờ người quen ở Bộ giúp hồ sơ tôi đã được cứu xét, có bổ túc giấy chứng nhận liệt sĩ của thầy mẹ tôi. Ðồng thời chú cũng khuyên tôi nên chấp hành nội qui đừng để vi phạm, vì điều kiện tiên quyết để được tha vẫn là sự nhận xét của trại, phải xếp lọai cải tạo từ khá đến tốt, mới được khoan hồng.

Sau lần gặp chú K. tinh thần tôi phấn khởi như đã thấy tia sáng cuộc đời đang ló dạng ! Thế rồi từ ngày đó đến ngày tôi được tha, tôi không được thư từ bưu kiện nào nữa! Hơn nửa năm đói khổ tôi vẫn cố gắng lao động tốt và chấp hành nội qui. Hằng đêm tôi đọc kinh cầu nguyện xin được ơn bền trí bền sức chịu đựng cho đến ngày về đòan tụ gia đình!!!

Hôm đọc danh sách “ra trại”, tôi phải ở lại một hôm để làm thủ tục và chờ xe chở đi Ga Vinh, tôi đã nhận gần 20 bức thư của anh em đồng cảnh nhờ gửi về cho gia đình, tôi đã giấu vào quai sacaudos, khi cán bộ kiểm tra hỏi tất cả chúng tôi (17 người) có ai nhận thư từ của bạn thì tự giác bỏ ra, còn nếu xét thấy thì lệnh tha sẽ hủy bỏ vì vi phạm nội qui trại. Trong đó có anh định tự giác bỏ ra, tôi phải lên tiếng “Anh em chúng tôi đã biết nội qui cấm nên không ai nhận thư cả, ai dại gì mà nhận để mang họa vào thân, cán bộ yên tâm” Thấy tôi nói cứng nên anh CA nầy cũng thông qua thủ tục. Khi chúng tôi lên xe lửa ở Ga Vinh và công an tiễn đưa chúng tôi đã về trại thì trong người anh nào cũng có thư, có ghi địa chỉ cùng những lời nhắn gửi gia đình vv… Chúng tôi đã làm tròn bổn phận đối với anh em còn ở lại, mặc dù chúng tôi có quyền khước từ vì quyền lợi bản thân rất chính đáng!


• NHẬN XÉT THAY ÐOẠN KẾT

1. Về Sự Mất Tích Của Cha Tôi :

1/ Về sự mất tích của cha tôi ngày 14 tháng 7 năm 1947. Cha tôi nguyên là công chức của Pháp hồi hưu về Làng Tân Lác - Lý Ninh Cường, Trực Ninh, Nam Ðịnh tại một xứ đạo Công Giáo 100%. Lúc đó VM coi vùng Công Giáo như vùng Tề. Mấy lần bộ phận tuyên truyền vào làng định mượn nhà thờ làm trụ sở họp dân, bị dân phản đối, phải có Cha Xứ ra can thiệp mới êm. Tổ chức hành chánh lập Trụ Sở Ủy Ban Kháng Chiến cũng không ai hưởng ứng, không ai chịu nhận chức Chủ Tịch UBKCHC, rồi Huyện đề cử thầy tôi, thầy tôi cũng không nhận nhưng hứa sẽ giúp Huyện về mặt hành chánh với dân trong làng. Rồi chính sách “cải cách ruộng đất” trong làng đã nhiều người bị thu thuế, bị hăm truất hữu vv… Những người nầy đã đến nhờ thầy tôi can thiệp và VM cũng đồng ý lui ra 1 năm nữa mới áp dụng chính sách ruộng đất vùng nầy. Thế rồi vùng Công Giáo trong 2 Huyện Trực Ninh và Hải Hậu coi như tự trị không có chính quyền VM quản lý .

Ngày 14/7/1947 Thầy tôi từ nhà đi chợ Ninh Cường để tìm anh D. từ đó Thầy tôi mất tích luôn!... Cả tháng trời người nhà đi tìm kiếm, có người nói gặp thầy tôi vào khỏang 4 giờ chiều ngày 14/7/1947 trên đường về cách nhà tôi khỏang 10 km. Sau thời gian không tìm được thầy tôi thì mẹ tôi đưa chúng tôi đi Hà Nội hồi cư. Tới cuối năm 1947 thì chị Quảng kết nạp tôi vào họat động Biệt Ðộng Ðội Nội Thành, VM mới cho biết CA đã tìm được thủ phạm giết cha tôi rồi cột đá bỏ xuống sông Ninh Cường, chính anh D. tôi bắn thủ phạm và thầy tôi đuợc Huân Chương Kháng Chiến hạng Nhất và phong liệt sĩ?!. Hồi đó tôi còn nhỏ nghe người lớn bình luận về cái chết của thầy tôi tới 2 giả thuyết : Thứ nhất, do Ðịa Chủ giết để ngăn phong trào cải cách ruộng đất. Nhưng thầy tôi đã làm gì đâu? Chưa có ruộng của ai bị mất cả! Thứ 2, bị VM giết vì cha tôi là ngừơi Công Giáo trí thức trong làng đã nhiều lần khuyến dụ mà cha tôi không theo, không nhận chức chủ tịch UBKCHC!

2. Tìm hiểu về ông Trung Tá Quyết:

Tại sao một cán bộ Cộng Sản cấp cao mà dám công khai nhận họ hàng với Ngụy, không sợ bị giảm giá trị vì liên hệ sao? Còn mẹ tôi từ sinh ra đến lớn đều ở Hà Nội với gia đình ông bà ngọai tôi cho tới khi lấy chồng, cha tôi cũng ở rể bên ngọai tôi. Chỉ có 1 lần biết quê nội tôi nhân dịp tản cư cuối năm 1946 được mấy tháng có cả tôi, kế đó mẹ tôi đi buôn bán rồi về quê nội tôi, thấy cha tôi mất tích nên đón chúng tôi vào thành Hà Nội khỏang tháng 8 năm 1947. Từ ngày ông Quyết nhận họ hàng với tôi, anh em trong trại bắt đầu xa lánh, coi tôi như tai mắt của ông Quyết. Ðây cũng là đòn ly gián kế Ðúng là “gậy ông ông đập lưng ông”.

Tôi có phải là đối tượng Mỹ cần xử dụng để phải giết mẹ tôi không? Khi mẹ tôi mất, tháng 5 năm 1966, lúc đó tôi thuộc Trung Ðòan 40/SÐ 22 BB biệt phái MACV Kontum, lúc đó ngành ANQÐ phục vụ theo ý riêng của Tổng Thống Thiệu, ngành nầy không được Mỹ ủng hộ nên không có ngân khỏan, đã có lần Mỹ đề nghị sát nhập vào phòng 2 BTTM vì theo bản cấp số tổ chức của Mỹ thì ngành nầy trực thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Có anh bạn đưa ý kiến cái chết của mẹ tôi như uống phải “Tam Thi Não Thần Ðơn của giáo chủ MTTQ” để chấm dứt công tác điệp báo!

Về ông Trung Tá Quyết chẳng cần phải hỏi Dì. Cậu tôi để biết họ hàng, nhưng tìm hiểu mục đích của ông Quyết gặp tôi thì ra đáp số bài tóan!

Lâm Tiến Ðạt